Truyện kể của Lu Hà phần 1 Kỷ luật nhà binh thật là hà khắc, nhất là quân đội cộng sản Bắc Việt. Trai gái luôn ở bên nhau, hai phần ba là nữ, một phần ba là nam. Tuy rằng lán nam lán nữ cách nhau một cái sân khá rộng, giữa là ban chỉ huy đại đội, y tá, liên lạc viên kiêm điếu đóm hầu hạ cơm nước cho các thủ trưởng. Chỉ có chiều tối là cánh đàn ông thuộc loại gà trống cựa sang thăm cánh đàn bà thuộc loại gà mái tơ. Nhưng tôi chưa hề thấy gà trống nhảy mái bao giờ. 9 giờ tôi ai về lán ấy im ắng lạnh ngắt như tờ. Biết tiếng tôi nói được tiếng Lào, và luôn có thơ hay đăng trên báo trung đoàn, các cô gái công binh rất thích tôi. Tuy gọi là bộ đội công binh, nhưng các cô có được mang súng đâu? Có khác chi là thanh niên xung phong, hàng ngày chỉ có việc cuốc đất, cào đất, san bằng mặt đường. Tôi đang phấn đấu để ra Bắc nên tích cực làm việc, không dám manh động tòm tem với cô nào. Trong lòng tôi rất thích yêu Hoa, nhưng chỉ mới thơ phú bóng gió xa xôi. Hoa cũng cảm nhận điều đó, mỗi khi tôi đến chơi là các bạn gái đi gọi Hoa về. Cô là con gái họ đạo, theo đạo Ki- Tô. Ngày đó tôi còn hiểu về đạo công giáo rất ít, nghe nói Hoa đã có lần tự tử vì chán đời, đang học hành giỏi giang, ước mơ đi học sư phạm thì phải đi lính nghĩa vụ. Tôi cũng vừa mới xuýt chết vì bệnh sốt rét ác tính, tôi cũng bớt buồn nhớ khi mấy tháng trước còn nằm ở lán đại đội bộ. Thủ trưởng Mười gọi tôi lên trao bức thư bố tôi. Thì ra bố tôi bị thương nặng ở Quảng Bình, phải nằm viện nối hay vá lại khúc ruột, ngày đó ông đại tá Đặng Tính trên đường vào Nam có ghé thăm. Bố tôi chỉ cho ông Tính xem các vết thương. Ông tính cũng phải lắc đầu thở dài chỉ nói một câu: Thôi cho anh ấy về…Sau đó chính đại tá Đặng Tính lại tử trận và lính tráng phải bỏ xác ông vào cái thùng phi xăng rỗng, hàn kín mít chở ra ngoài Bắc. Hoa đọc thơ tôi, nhỏ nhẹ nói: Thơ anh tặng em rất nhiều ý nghĩa, em còn suy nghĩ mới có thể làm thơ đáp lại anh được. Các thủ trưởng cũng vun vào tôi với Hoa và bảo sau này ra Bắc hai đứa sẽ cưới nhau. Các cô công binh trẻ trung ngây thơ hồn nhiên, tuổi từ chừng từ 16, 17 đến 20 hay 25 là cùng. Cách đơn vị không xa có một bản Lào, ngày hội té nước các cô rủ nhau vào xem, khi về co nào cô ấy ướt như chuột lột. Tôi cũng chả lạ gì mấy cái bản Lào, mà đã vào chỉ là đổi chác. Lúc bấy giờ quân đội Mỹ đã rút khỏi miền Nam, không còn chuyện bắn phá các tuyến đường Hạ Lào nữa, hoàn toàn do quân đội Bắc Việt làm chủ. Các xe tải cháy được dọn sạch nên chẳng có díp ô tô đâu mà mang đi đổi chác. Vả lại tôi luôn luôn giữ mình trong sạch liêm khiết, miệt mài lao động để chờ đợi cấp trên cất nhắc cho ra ngoài Bắc học tập. Tôi rất thương ái ngại cho các cô gái Thái Bình nhiều cô đã bị sốt rét. Y tá Thường vào loại gà trống già, rất hăng hái với chuyện buông màn nhảy lên giường tụt quần chị em ra để tiêm mông. Hy vọng không có cô nào bị áp se như tôi. Chỉ một năm thôi mà nhiều cô môi đã thâm xịt, da dẻ đã không còn được trắng trẻo hồng hào như lúc mới vào bộ đội. Không biết tương lai các em sẽ ra sao? Liệu còn khả năng lấy chồng, sinh đẻ được không? Bệnh sốt rét có bị vô sinh không? Rồi bỗng nhiên tôi được giấy triệu tập của trung đoàn, tôi sẽ được ra Bắc học tập về ngành kỹ thuật. Tôi đành chia tay Hoa, các cô gái và anh bạn bè trong cùng tiểu đội, trung đội. Tôi chỉ có một thằng bạn thân nhất tên là Đức tiễn tôi lên tận trung đoàn, tôi mang bức thư của Đức đến Gia Lâm thăm gia đình. Sau này nghe tin cuốc phải quả mìn và đã hy sinh. Nhớ Bạn Cùng Tiểu Đội viếng linh hồn T Đ Mày với tao cùng chung tiểu đội Ba năm trời sống chết bên nhau Rừng Trường sơn suốt ngày u ám Mưa nắng hai muà sốt tái da Vì cực khổ nên tao quyết học Phò me hay lục kin khẩu niêu... Cứ lai dai cũng thành ra sự Tà hán Việt nam đang đói meo.... Tiếng hát cuả ai vang biển lá Buồn lòng chiến sĩ lúc xa hương Có phải tiếng cô Lào đấy nhỉ Ru hồn người lầm lạc bi thương... Mày tiễn tao đi một chặng đường Rừng mây khấp khểnh gió đưa hương Phong lan ghi lại dòng lưu niệm Ai có ngờ đâu nét cuối cùng... Điạ chỉ lần theo tao đến thăm Gia đình cha mẹ ở Gia Lâm Kể từ ngày đó tao đi hẳn Như cánh chim bay chẳng lỗi lầm... Nghe trái bom bi giết bạn rồi Chàng trai Hà Nội mới đôi mươi Khi tôi đã ở ngoài miền Bắc Tiếng sét ngang tai rụng rã rời... Một nén hương lòng bạn cuả tôi Ngậm ngùi cát sĩ nhớ xa xôi Đôi dòng ngắn ngủi đầy thương mến Thương xót cho ai chiụ thiệt thòi... 2008 Lu Hà Trường Sơn vùng đất Hạ Lào với tôi bây giờ là một chuỗi dài những kỷ niệm khó quên, với những tên gọi: Ngầm K, hang đá, các bản như Sà Teng, Cậm Cọc…Rất cảm động thi sĩ Thanh Hoàng đã gửi tặng tôi bài thơ. Cảnh rừng núi Tây Nguyên hùng vĩ, là nơi chôn nhau cắt rốn cho 100 đưá con sinh ra cùng chung một bọc cuả Mẹ Âu Cơ. Theo trí tưởng tượng cuả những tâm hồn thi sĩ thì những mớ nhau đó đã hoá thành đồng, nhôm, than đá v.v…thành tài nguyên để lại, thành của hồi môn cho những đưá con nghèo Việt Nam. Tuy sự thật ông Lạc Long Quân và bà Âu Cỏ chỉ là một câu chuyện bịa, một truyền thuyết trong tác phẩm văn hoc mà tác giả hư cấu ra mà thôi, như nhà văn Ngô Thừa Ân bên Tàu viết truyện Tây Du Ký vậy. Là người Việt Nam văn minh có kiến thức ta không nên quá tin vào câu chuyện tổ tiên ta thần thánh quái gở như vậy. Con người là linh thể của tạo hóa và Thiên Chúa, chứ đâu có phải là yêu quái một người đàn bà sinh ra cái bọc có 100 quả trứng như trứng gà trứng vịt vậy để gọi nhau là đồng bào ? Truyện này có trong tác phẩm văn học Lĩnh Nam Chích Quaí ? Do một danh sĩ đời nhà Trần là ông Trần Thế Pháp soạn ra. Ta hãy tin tổ tiên ta theo lịch sử đáng tin cậy khởi đầu là ông An Dương Vương xây thành Cổ Loa, sau là Triệu Đà ...Ngày nay người cộng sản lợi dụng chữ đồng bào khúc ruột ngàn dặm để moi tiền người Việt tỵ nạn. Người Nhật tự cho mình là con cái của Thái Dương Thần Nữ, chỉ là biểu tượng của lòng tự tôn dân tộc, sinh sản nơi hải đảo hoang dã quanh năm đầy ánh mặt trời, còn có ý nghĩa. Có lẽ chúng ta quá tự hào đến mức mụ mẫm tự coi minh là con rồng cháu tiên. Ông Lạc Long Quân là rồng, bà Âu Cơ là tiên, thủy hỏa, nóng lạnh sung khắc nên không ở được với nhau mà khi bà Âu Cơ sinh ra cái bọc tức bào thai có 100 trứng, vứt ra ngoài đồng mà nở ra 100 người con mà cũng dễ tin. Theo tôi là danh sĩ đời nhà Trần sao chép chuyện nhảm nhí trong các sách cổ bên Tàu, nên mới có tên Lĩnh Nam Chích Quái, kể toàn chuyện quái dị quái đản ma quỷ ở phương Nam, tức Việt Nam ta, không biết có ý sỉ nhục hay không? Người Việt man di mọi rợ, chỉ nghe gọi bố rồng mẹ tiên mà đã vội mừng rỡ tự hào? Miền Bắc nên nhớ đến các đời Vua Hùng, còn miền Nam nên nhớ đến Chúa Nguyễn Hoàng đã có công khai khẩn và mở mang bờ cõi. Tôi nghĩ như vậy là hợp lý. Dân ta từ nhiều thế hệ đã quen như vây, tự coi mình là con rồng cháu tiên cũng tốt, cốt chuyện cổ tích thần thoại này cũng có ý nghĩa tích cực, khêu gợi tình đoàn kết miền xuôi miền ngược gồm 100 dân tộc, 100 họ tạo dựng nên nhà nước Văn Lang, Âu Lạc, Lạc Việt , nhưng đáng lý nói miền Lĩnh Nam đã có 100 bộ tộc, 100 dân tộc Việt sinh sống rồi có lẽ còn hay hơn cái chuyện ma quái đẻ ra cái bọc có 100 quả trứng. Tôi cũng đã một thời nếm trải qua những năm tháng mở đường trên dãy núi Trường Sơn. Đối với Phạm Tiến Duật thì Trường sơn là Thiên Đường hạnh phúc và vinh quang. Nhưng đối với tôi Trường Sơn là điạ ngục trần gian. Sốt rét chết chóc nhiều lắm, may có sống sót trở về thì phần lớn những người lính Trường Sơn đều mang bệnh cả sốt rét ác tính. Thật buồn và thương tiếc cho những ngưòi đã ngã xuống hy sinh cả hai trận tuyến Quốc Cộng. Một bên xâm lấn và một bên chống xâm lấn, họ đã tiến hành một cuộc chiến tranh thưà thãi, vô lý không thể tưởng tượng nổi. Nhưng nó đã sảy ra và nó đã trôi qua. Cảm cái ơn tri ngộ cuả Thi Sĩ Thanh Hoàng, tôi xin hoạ lại và có thơ tâm sự thêm Đoạ Đày Nơi Rừng Thẳm mến hoạ thơ Thanh Hoàng Mưa nắng hai muà nét đặc trưng Trường sơn thăm thẳm khói sương bừng Ma thiêng nước độc gieo hoang dại Bọ chó ruồi vàng giải khắp rừng Cành lá ngụy trang loài chuột dũi Đồi thông tung cánh giống chim ưng Đại bàng sinh phải thời tao loạn Chồn cáo đười ươi cũng mọc sừng Dê cỏn ti toe đấu chọi sừng Hoang vu ong bướm cũng reo mừng Ngán sao cảnh ngộ thêm ảm đạm Mệt mỏi nào ai dám ngả lưng Quai dép ba lô gùi số mạng Đai da súng đạn tấy sưng gân Non xanh nước biếc cho ai nhỉ Mỏi gối chồn chân nhọc tấm thân. 17.2.2010 Lu Hà Hỡi Các Thi Nhân Hỡi người thi sĩ của quê hương Tiếng nấc dâng lên tắc nghẹn lòng Anh khóc thương đời bao số phận Sinh lầm thế kỷ nuốt đau thương Cay đắng làm sao những kiếp người Có tài có đức vẫn buông rơi Thở dài tắc lưỡi thôi đành chịu Biết thế thì sao bởi tại trời? Hỏi lại rằng ai bóp méo tròn Buôn thần bán thánh tậu vàng son Đi tìm chân lý miền hoang dã Giấc mộng thiên đường trượt lối mòn Thuở trước chỉ vài chục triệu dân Giờ đây chen lấn bốn năm lần Đàn con còi cọc không hề lớn Hy vọng niềm tin đã héo dần Tủi hận làm sao hỡi các anh Hồn thơ thổn thức suốt năm canh Tim đau tứa máu như dòng chảy Xói tận buồng gan với sử xanh! 2007 Lu Hà Giấc Mơ Trường Sơn Mấy tháng trơì nhai mãi địa liền Tàu bay rau đất mọc loèn xoèn Mật vàng xanh đỏ ruồi bu đến Sốt rét từng cơn nhớ tổ tiên Hai mùa mưa nắng gió vàng da Chống gậy liêu xiêu mắt ướt nhoà Đằng đẵng tháng ngày mong mỏi tết Thư nhà xa tít gió mây xa Một chiều ảm đạm gọi lên chơi Có bức thư riêng đã mở rồi Ký ninh thuốc đắng nghe vượn hú Đau lòng con lắm lệ từng rơi! Run tay tôi đọc bức thư cha Gió rét từng cơn nấc nghẹn ngào Bom nổ đạn bay vùng tọa độ Chớp xanh chớp đỏ tắt lời thơ Một đơì lính tráng chẳng mề đay Công trạng xem ra chẳng có gì Phá núi mở đường thông chiến lược Tháng ngày mòn mỏi trắng đôi tay Mới mười bảy tuổi phaỉ tòng quân Xa Mẹ xa em cả mái trường Gác bút vác dao ra mặt trận Anh hùng dũng sĩ ở miền nam Một quãng đời qua trận gió bay Hào quang tia chớp để ai hay Nuí sông kêu gọi cho chủ nghiã Băng tuyết trời âu đổi hướng rồi Hơĩ ai đâu đó vẫn còn mơ Chống Mỹ lời vàng vẳng tứ thơ Ra trận muà này ôi đẹp quá Mà lòng phơi phới dậy tương lai Thế kỷ qua rồi ngoặt gió đông Bạn thù đôi ngả lẩn vào trong Tuyên truyền báo chí liên hoàn trận Chỉ chết thằng ngơ đứng giưã đường... 22.12. 2007, Lu Hà Chú thích: Điạ Liền: là loaị rau mọc loà xoà sát đất Tàu Bay: loaị rau cao như cây rau caỉ, xanh lè Tặng Anh Phạm Tiến Duật Con Phượng Hoàng sơ sinh Xuân Diệu đã gọi anh Lông măng chưa đủ cánh Của một thời chiến chinh Chiến tranh đã qua đi Người ta còn nhắc laị Dăm bài thơ chống Mỹ Ngân vang một cuộc đời Tôi biết nói làm sao ? Khi đọc những vần thơ Ruồi vàng thành bọ chó Muỗi rừng sâu vo ve Ôi cuộc đời tang thương Như cô gái xung phong Thạch Kim là Thạch nhọn Anh Duật ơi ! Em đây Nước mắt cứ chảy daì Trôi theo hai cuộc đơì Mà sao đành côi cút Đêm Trường Sơn mưa rơi Trong tiếng kèn đưa ma Kính viếng anh bài thơ Cuả một người đồng đội Lính Trường Sơn năm xưa Hương hồn còn bơ vơ Con ve sầu ngẩn ngơ Nuối tiếc thời oanh liệt Nhưng chẳng dám kêu to.... Lu Hà Nhớ Em Cô Gái Trường Sơn tặng Như Hoa Bỗng nhiên tôi nhớ một người Ba lăm năm trước một thời yêu thương Giữa nơi bom đạn chiến trường Gặp em mười bảy lên đường tòng chinh Em là con gái Thái Bình Vì ai nên nỗi duyên tình tang thương Rừng xanh vực thẳm chán chường Thương em gái nhỏ mở đường Trường Sơn Cùng nhau chia sẻ nắm cơm Chặt cây sẻ núi tro tàn lá bay Lạ lùng giưã chốn rừng nai Thướt tha yểu điệu chân dài kiêu sa Từ lâu tôi vẫn hằng mơ Giống nòi khoẻ mạnh cao to lạ thường Chôn sâu từ tận đáy lòng Mai này tôi sẽ đưa nàng đi xa Bao nhiêu hy vọng đợi chờ Bài thơ tám chữ thẹn thò gửi trao Những đêm dưới ánh trăng sao Lán nam lán nữ se tơ chỉ hồng Bập bùng bên ánh lửa lòng Buì ngùi em kể nhà dòng quê Cha Em là con cái đức Bà Sinh ra chẳng được trọn thờ niềm tin Chiến tranh ngọn lửa điêu tàn Động viên con gái tuổi còn học sinh Bận đồ quân phục màu xanh Trung đoàn phản chiến quyên sinh giưã đường Bộ đồ phụ nữ xú trương Nhúng vào dòng suối cản đường hành quân Trăm xe hốt cả trung đoàn Các em cô gái Trường Sơn mở đường Thương em anh để trong lòng Ngậm nguì thổn thức não nùng làm sao Tâm tình chưa thoả dạt dào Từ đâu ngọn gió ba đào ác thay Anh về miền Bắc hậu phương Đôi ta chia sẻ dạm đường thương yêu Trường Sơn sáng nắng chiều mưa Bài thơ dang dở bước qua cuộc đời Hôm nay lòng vẫn bùi ngùi Bom rơi đạn nổ rụng rời xác hoa Hãi hùng như thể chiêm bao Thương em gái nhỏ năm xưa rừng Lào Mất còn chẳng biết thế nào Ba lăm năm giữ giọt sầu trong tim…! 2008 Lu Hà Đánh Mất Tuổi Xuân Tặng em cô gái Trường sơn Thuở trời đất trào cơn sóng đỏ Hận ngàn thu giông tố mưa rơi Nước non bàng bạc một thời Cuốn theo tuổi trẻ một đời chinh nhân Trai với gái lưá còn rất trẻ Xếp bút nghiên thể chế lên đường Chẳng hò hẹn ở chiến trường Đoàn năm năm chín mở đường Trường Sơn Anh tòng quân chưa tròn mười tám Em theo sau tuổi mới trăng non Vì sao duyên phận lưã lần Yêu em mà chẳng trọn phần nỉ non Trong đại đội xa gần là nữ Luật nhà binh lành dữ biết sao Cấm đôi trai gái hẹn hò Cấm cùng đi dạo cơ hồ công khai Anh lén lút bồi hồi ghi tặng Gửi cho em vài tiếng thương yêu Sợ rằng đồng đội biết nhiều Phê bình kiểm thảo mọi điều gian ngay Đời ta sao khổ thế này Yêu nhau chẳng được tỏ bày cùng nhau… Cứ lầm lũi sớm chiều cuốc đất Mở con đường đâm nát con tim Hàng ngày xe chạy ầm ầm Chiến xa xanh lá tới miền cao miên Bệnh sốt rét lan tràn đại đội Mưả mật vàng tê tái thương đau Than ôi tuổi trẻ còn đâu Môi thâm mặt tái âu sầu làn da Sợ mất điểm thi đua tiến bộ Nên anh đành thất thố với em Thương em để bụng âm thầm Ngày đêm toan tính lo tìm lối ra Nhìn về miền Bắc quê nhà Tương lai hy vọng đang chờ đón anh Sau ba năm rừng xanh núi đỏ Gạt lệ sầu máu rỏ tim phai Chưa hề thề thốt nặng lời Anh như cơn gió một thời thoảng qua Rừng Trường Sơn vi vu gió thổi Lạnh ru hồn tử sĩ âm u Mây vàng lãng đãng chiều xa Như Hoa chẳng biết bây giờ ở đâu? Sống hay chết làm sao biết được Chỉ biết rằng một bước lưu ly Thương em tuổi trẻ thiệt thòi Đời Hoa tan nát một thời chiến chinh… 2008 Lu Hà thương tặng Như Hoa Xin kết thúc phần hồi ký về những năm tháng tôi là lính công binh mở đường thuộc binh đoàn 559 bằng những bài thơ, để sang một trang, chương hồi khác. Kể từ tháng 9 năm 1971 tôi đăng lính và ở Trường Sơn 3 năm. Mùa hè năm 1974 tôi được gửi ra Bắc về trường văn hóa Lạng Sơn để lấy bằng phổ thông trung học, tương đương với lớp 10 mà chỉ chuyên về 3 môn toán lý hóa để thi vào đại học kỹ thuật quân sự. 19.6.2019 Lu Hà