Trở Ra Miền Bắc (1)

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 6 19, 2019.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Truyện kể của Lu Hà phần 1


    Kỷ luật nhà binh thật là hà khắc, nhất là quân đội cộng sản Bắc Việt. Trai gái luôn ở bên nhau, hai phần ba là nữ, một phần ba là nam. Tuy rằng lán nam lán nữ cách nhau một cái sân khá rộng, giữa là ban chỉ huy đại đội, y tá, liên lạc viên kiêm điếu đóm hầu hạ cơm nước cho các thủ trưởng. Chỉ có chiều tối là cánh đàn ông thuộc loại gà trống cựa sang thăm cánh đàn bà thuộc loại gà mái tơ. Nhưng tôi chưa hề thấy gà trống nhảy mái bao giờ. 9 giờ tôi ai về lán ấy im ắng lạnh ngắt như tờ. Biết tiếng tôi nói được tiếng Lào, và luôn có thơ hay đăng trên báo trung đoàn, các cô gái công binh rất thích tôi. Tuy gọi là bộ đội công binh, nhưng các cô có được mang súng đâu? Có khác chi là thanh niên xung phong, hàng ngày chỉ có việc cuốc đất, cào đất, san bằng mặt đường.


    Tôi đang phấn đấu để ra Bắc nên tích cực làm việc, không dám manh động tòm tem với cô nào. Trong lòng tôi rất thích yêu Hoa, nhưng chỉ mới thơ phú bóng gió xa xôi. Hoa cũng cảm nhận điều đó, mỗi khi tôi đến chơi là các bạn gái đi gọi Hoa về. Cô là con gái họ đạo, theo đạo Ki- Tô. Ngày đó tôi còn hiểu về đạo công giáo rất ít, nghe nói Hoa đã có lần tự tử vì chán đời, đang học hành giỏi giang, ước mơ đi học sư phạm thì phải đi lính nghĩa vụ. Tôi cũng vừa mới xuýt chết vì bệnh sốt rét ác tính, tôi cũng bớt buồn nhớ khi mấy tháng trước còn nằm ở lán đại đội bộ. Thủ trưởng Mười gọi tôi lên trao bức thư bố tôi. Thì ra bố tôi bị thương nặng ở Quảng Bình, phải nằm viện nối hay vá lại khúc ruột, ngày đó ông đại tá Đặng Tính trên đường vào Nam có ghé thăm. Bố tôi chỉ cho ông Tính xem các vết thương. Ông tính cũng phải lắc đầu thở dài chỉ nói một câu: Thôi cho anh ấy về…Sau đó chính đại tá Đặng Tính lại tử trận và lính tráng phải bỏ xác ông vào cái thùng phi xăng rỗng, hàn kín mít chở ra ngoài Bắc.


    Hoa đọc thơ tôi, nhỏ nhẹ nói: Thơ anh tặng em rất nhiều ý nghĩa, em còn suy nghĩ mới có thể làm thơ đáp lại anh được. Các thủ trưởng cũng vun vào tôi với Hoa và bảo sau này ra Bắc hai đứa sẽ cưới nhau.

    Các cô công binh trẻ trung ngây thơ hồn nhiên, tuổi từ chừng từ 16, 17 đến 20 hay 25 là cùng. Cách đơn vị không xa có một bản Lào, ngày hội té nước các cô rủ nhau vào xem, khi về co nào cô ấy ướt như chuột lột. Tôi cũng chả lạ gì mấy cái bản Lào, mà đã vào chỉ là đổi chác. Lúc bấy giờ quân đội Mỹ đã rút khỏi miền Nam, không còn chuyện bắn phá các tuyến đường Hạ Lào nữa, hoàn toàn do quân đội Bắc Việt làm chủ. Các xe tải cháy được dọn sạch nên chẳng có díp ô tô đâu mà mang đi đổi chác. Vả lại tôi luôn luôn giữ mình trong sạch liêm khiết, miệt mài lao động để chờ đợi cấp trên cất nhắc cho ra ngoài Bắc học tập.


    Tôi rất thương ái ngại cho các cô gái Thái Bình nhiều cô đã bị sốt rét. Y tá Thường vào loại gà trống già, rất hăng hái với chuyện buông màn nhảy lên giường tụt quần chị em ra để tiêm mông. Hy vọng không có cô nào bị áp se như tôi. Chỉ một năm thôi mà nhiều cô môi đã thâm xịt, da dẻ đã không còn được trắng trẻo hồng hào như lúc mới vào bộ đội. Không biết tương lai các em sẽ ra sao? Liệu còn khả năng lấy chồng, sinh đẻ được không? Bệnh sốt rét có bị vô sinh không?


    Rồi bỗng nhiên tôi được giấy triệu tập của trung đoàn, tôi sẽ được ra Bắc học tập về ngành kỹ thuật. Tôi đành chia tay Hoa, các cô gái và anh bạn bè trong cùng tiểu đội, trung đội. Tôi chỉ có một thằng bạn thân nhất tên là Đức tiễn tôi lên tận trung đoàn, tôi mang bức thư của Đức đến Gia Lâm thăm gia đình. Sau này nghe tin cuốc phải quả mìn và đã hy sinh.


    Nhớ Bạn Cùng Tiểu Đội

    viếng linh hồn T Đ


    Mày với tao cùng chung tiểu đội

    Ba năm trời sống chết bên nhau

    Rừng Trường sơn suốt ngày u ám

    Mưa nắng hai muà sốt tái da


    Vì cực khổ nên tao quyết học

    Phò me hay lục kin khẩu niêu...

    Cứ lai dai cũng thành ra sự

    Tà hán Việt nam đang đói meo....


    Tiếng hát cuả ai vang biển lá

    Buồn lòng chiến sĩ lúc xa hương

    Có phải tiếng cô Lào đấy nhỉ

    Ru hồn người lầm lạc bi thương...


    Mày tiễn tao đi một chặng đường

    Rừng mây khấp khểnh gió đưa hương

    Phong lan ghi lại dòng lưu niệm

    Ai có ngờ đâu nét cuối cùng...


    Điạ chỉ lần theo tao đến thăm

    Gia đình cha mẹ ở Gia Lâm

    Kể từ ngày đó tao đi hẳn

    Như cánh chim bay chẳng lỗi lầm...


    Nghe trái bom bi giết bạn rồi

    Chàng trai Hà Nội mới đôi mươi

    Khi tôi đã ở ngoài miền Bắc

    Tiếng sét ngang tai rụng rã rời...


    Một nén hương lòng bạn cuả tôi

    Ngậm ngùi cát sĩ nhớ xa xôi

    Đôi dòng ngắn ngủi đầy thương mến

    Thương xót cho ai chiụ thiệt thòi...


    2008 Lu Hà



    Trường Sơn vùng đất Hạ Lào với tôi bây giờ là một chuỗi dài những kỷ niệm khó quên, với những tên gọi: Ngầm K, hang đá, các bản như Sà Teng, Cậm Cọc…Rất cảm động thi sĩ Thanh Hoàng đã gửi tặng tôi bài thơ. Cảnh rừng núi Tây Nguyên hùng vĩ, là nơi chôn nhau cắt rốn cho 100 đưá con sinh ra cùng chung một bọc cuả Mẹ Âu Cơ. Theo trí tưởng tượng cuả những tâm hồn thi sĩ thì những mớ nhau đó đã hoá thành đồng, nhôm, than đá v.v…thành tài nguyên để lại, thành của hồi môn cho những đưá con nghèo Việt Nam. Tuy sự thật ông Lạc Long Quân và bà Âu Cỏ chỉ là một câu chuyện bịa, một truyền thuyết trong tác phẩm văn hoc mà tác giả hư cấu ra mà thôi, như nhà văn Ngô Thừa Ân bên Tàu viết truyện Tây Du Ký vậy. Là người Việt Nam văn minh có kiến thức ta không nên quá tin vào câu chuyện tổ tiên ta thần thánh quái gở như vậy. Con người là linh thể của tạo hóa và Thiên Chúa, chứ đâu có phải là yêu quái một người đàn bà sinh ra cái bọc có 100 quả trứng như trứng gà trứng vịt vậy để gọi nhau là đồng bào ? Truyện này có trong tác phẩm văn học Lĩnh Nam Chích Quaí ? Do một danh sĩ đời nhà Trần là ông Trần Thế Pháp soạn ra. Ta hãy tin tổ tiên ta theo lịch sử đáng tin cậy khởi đầu là ông An Dương Vương xây thành Cổ Loa, sau là Triệu Đà ...Ngày nay người cộng sản lợi dụng chữ đồng bào khúc ruột ngàn dặm để moi tiền người Việt tỵ nạn.


    Người Nhật tự cho mình là con cái của Thái Dương Thần Nữ, chỉ là biểu tượng của lòng tự tôn dân tộc, sinh sản nơi hải đảo hoang dã quanh năm đầy ánh mặt trời, còn có ý nghĩa. Có lẽ chúng ta quá tự hào đến mức mụ mẫm tự coi minh là con rồng cháu tiên. Ông Lạc Long Quân là rồng, bà Âu Cơ là tiên, thủy hỏa, nóng lạnh sung khắc nên không ở được với nhau mà khi bà Âu Cơ sinh ra cái bọc tức bào thai có 100 trứng, vứt ra ngoài đồng mà nở ra 100 người con mà cũng dễ tin. Theo tôi là danh sĩ đời nhà Trần sao chép chuyện nhảm nhí trong các sách cổ bên Tàu, nên mới có tên Lĩnh Nam Chích Quái, kể toàn chuyện quái dị quái đản ma quỷ ở phương Nam, tức Việt Nam ta, không biết có ý sỉ nhục hay không? Người Việt man di mọi rợ, chỉ nghe gọi bố rồng mẹ tiên mà đã vội mừng rỡ tự hào? Miền Bắc nên nhớ đến các đời Vua Hùng, còn miền Nam nên nhớ đến Chúa Nguyễn Hoàng đã có công khai khẩn và mở mang bờ cõi. Tôi nghĩ như vậy là hợp lý.


    Dân ta từ nhiều thế hệ đã quen như vây, tự coi mình là con rồng cháu tiên cũng tốt, cốt chuyện cổ tích thần thoại này cũng có ý nghĩa tích cực, khêu gợi tình đoàn kết miền xuôi miền ngược gồm 100 dân tộc, 100 họ tạo dựng nên nhà nước Văn Lang, Âu Lạc, Lạc Việt , nhưng đáng lý nói miền Lĩnh Nam đã có 100 bộ tộc, 100 dân tộc Việt sinh sống rồi có lẽ còn hay hơn cái chuyện ma quái đẻ ra cái bọc có 100 quả trứng.


    Tôi cũng đã một thời nếm trải qua những năm tháng mở đường trên dãy núi Trường Sơn. Đối với Phạm Tiến Duật thì Trường sơn là Thiên Đường hạnh phúc và vinh quang. Nhưng đối với tôi Trường Sơn là điạ ngục trần gian. Sốt rét chết chóc nhiều lắm, may có sống sót trở về thì phần lớn những người lính Trường Sơn đều mang bệnh cả sốt rét ác tính. Thật buồn và thương tiếc cho những ngưòi đã ngã xuống hy sinh cả hai trận tuyến Quốc Cộng. Một bên xâm lấn và một bên chống xâm lấn, họ đã tiến hành một cuộc chiến tranh thưà thãi, vô lý không thể tưởng tượng nổi. Nhưng nó đã sảy ra và nó đã trôi qua. Cảm cái ơn tri ngộ cuả Thi Sĩ Thanh Hoàng, tôi xin hoạ lại và có thơ tâm sự thêm


    Đoạ Đày Nơi Rừng Thẳm

    mến hoạ thơ Thanh Hoàng


    Mưa nắng hai muà nét đặc trưng

    Trường sơn thăm thẳm khói sương bừng

    Ma thiêng nước độc gieo hoang dại

    Bọ chó ruồi vàng giải khắp rừng

    Cành lá ngụy trang loài chuột dũi

    Đồi thông tung cánh giống chim ưng

    Đại bàng sinh phải thời tao loạn

    Chồn cáo đười ươi cũng mọc sừng


    Dê cỏn ti toe đấu chọi sừng

    Hoang vu ong bướm cũng reo mừng

    Ngán sao cảnh ngộ thêm ảm đạm

    Mệt mỏi nào ai dám ngả lưng

    Quai dép ba lô gùi số mạng

    Đai da súng đạn tấy sưng gân

    Non xanh nước biếc cho ai nhỉ

    Mỏi gối chồn chân nhọc tấm thân.


    17.2.2010 Lu Hà



    Hỡi Các Thi Nhân


    Hỡi người thi sĩ của quê hương

    Tiếng nấc dâng lên tắc nghẹn lòng

    Anh khóc thương đời bao số phận

    Sinh lầm thế kỷ nuốt đau thương


    Cay đắng làm sao những kiếp người

    Có tài có đức vẫn buông rơi

    Thở dài tắc lưỡi thôi đành chịu

    Biết thế thì sao bởi tại trời?


    Hỏi lại rằng ai bóp méo tròn

    Buôn thần bán thánh tậu vàng son

    Đi tìm chân lý miền hoang dã

    Giấc mộng thiên đường trượt lối mòn


    Thuở trước chỉ vài chục triệu dân

    Giờ đây chen lấn bốn năm lần

    Đàn con còi cọc không hề lớn

    Hy vọng niềm tin đã héo dần


    Tủi hận làm sao hỡi các anh

    Hồn thơ thổn thức suốt năm canh

    Tim đau tứa máu như dòng chảy

    Xói tận buồng gan với sử xanh!


    2007 Lu Hà




    Giấc Mơ Trường Sơn


    Mấy tháng trơì nhai mãi địa liền

    Tàu bay rau đất mọc loèn xoèn

    Mật vàng xanh đỏ ruồi bu đến

    Sốt rét từng cơn nhớ tổ tiên


    Hai mùa mưa nắng gió vàng da

    Chống gậy liêu xiêu mắt ướt nhoà

    Đằng đẵng tháng ngày mong mỏi tết

    Thư nhà xa tít gió mây xa


    Một chiều ảm đạm gọi lên chơi

    Có bức thư riêng đã mở rồi

    Ký ninh thuốc đắng nghe vượn hú

    Đau lòng con lắm lệ từng rơi!


    Run tay tôi đọc bức thư cha

    Gió rét từng cơn nấc nghẹn ngào

    Bom nổ đạn bay vùng tọa độ

    Chớp xanh chớp đỏ tắt lời thơ


    Một đơì lính tráng chẳng mề đay

    Công trạng xem ra chẳng có gì

    Phá núi mở đường thông chiến lược

    Tháng ngày mòn mỏi trắng đôi tay


    Mới mười bảy tuổi phaỉ tòng quân

    Xa Mẹ xa em cả mái trường

    Gác bút vác dao ra mặt trận

    Anh hùng dũng sĩ ở miền nam


    Một quãng đời qua trận gió bay

    Hào quang tia chớp để ai hay

    Nuí sông kêu gọi cho chủ nghiã

    Băng tuyết trời âu đổi hướng rồi


    Hơĩ ai đâu đó vẫn còn mơ

    Chống Mỹ lời vàng vẳng tứ thơ

    Ra trận muà này ôi đẹp quá

    Mà lòng phơi phới dậy tương lai


    Thế kỷ qua rồi ngoặt gió đông

    Bạn thù đôi ngả lẩn vào trong

    Tuyên truyền báo chí liên hoàn trận

    Chỉ chết thằng ngơ đứng giưã đường...



    22.12. 2007, Lu Hà

    Chú thích: Điạ Liền: là loaị rau mọc loà xoà sát đất

    Tàu Bay: loaị rau cao như cây rau caỉ, xanh lè




    Tặng Anh Phạm Tiến Duật


    Con Phượng Hoàng sơ sinh

    Xuân Diệu đã gọi anh

    Lông măng chưa đủ cánh

    Của một thời chiến chinh


    Chiến tranh đã qua đi

    Người ta còn nhắc laị

    Dăm bài thơ chống Mỹ

    Ngân vang một cuộc đời


    Tôi biết nói làm sao ?

    Khi đọc những vần thơ

    Ruồi vàng thành bọ chó

    Muỗi rừng sâu vo ve


    Ôi cuộc đời tang thương

    Như cô gái xung phong

    Thạch Kim là Thạch nhọn

    Anh Duật ơi ! Em đây


    Nước mắt cứ chảy daì

    Trôi theo hai cuộc đơì

    Mà sao đành côi cút

    Đêm Trường Sơn mưa rơi


    Trong tiếng kèn đưa ma

    Kính viếng anh bài thơ

    Cuả một người đồng đội

    Lính Trường Sơn năm xưa


    Hương hồn còn bơ vơ

    Con ve sầu ngẩn ngơ

    Nuối tiếc thời oanh liệt

    Nhưng chẳng dám kêu to....


    Lu Hà



    Nhớ Em Cô Gái Trường Sơn

    tặng Như Hoa


    Bỗng nhiên tôi nhớ một người

    Ba lăm năm trước một thời yêu thương

    Giữa nơi bom đạn chiến trường

    Gặp em mười bảy lên đường tòng chinh


    Em là con gái Thái Bình

    Vì ai nên nỗi duyên tình tang thương

    Rừng xanh vực thẳm chán chường

    Thương em gái nhỏ mở đường Trường Sơn


    Cùng nhau chia sẻ nắm cơm

    Chặt cây sẻ núi tro tàn lá bay

    Lạ lùng giưã chốn rừng nai

    Thướt tha yểu điệu chân dài kiêu sa


    Từ lâu tôi vẫn hằng mơ

    Giống nòi khoẻ mạnh cao to lạ thường

    Chôn sâu từ tận đáy lòng

    Mai này tôi sẽ đưa nàng đi xa


    Bao nhiêu hy vọng đợi chờ

    Bài thơ tám chữ thẹn thò gửi trao

    Những đêm dưới ánh trăng sao

    Lán nam lán nữ se tơ chỉ hồng


    Bập bùng bên ánh lửa lòng

    Buì ngùi em kể nhà dòng quê Cha

    Em là con cái đức Bà

    Sinh ra chẳng được trọn thờ niềm tin


    Chiến tranh ngọn lửa điêu tàn

    Động viên con gái tuổi còn học sinh

    Bận đồ quân phục màu xanh

    Trung đoàn phản chiến quyên sinh giưã đường


    Bộ đồ phụ nữ xú trương

    Nhúng vào dòng suối cản đường hành quân

    Trăm xe hốt cả trung đoàn

    Các em cô gái Trường Sơn mở đường


    Thương em anh để trong lòng

    Ngậm nguì thổn thức não nùng làm sao

    Tâm tình chưa thoả dạt dào

    Từ đâu ngọn gió ba đào ác thay


    Anh về miền Bắc hậu phương

    Đôi ta chia sẻ dạm đường thương yêu

    Trường Sơn sáng nắng chiều mưa

    Bài thơ dang dở bước qua cuộc đời


    Hôm nay lòng vẫn bùi ngùi

    Bom rơi đạn nổ rụng rời xác hoa

    Hãi hùng như thể chiêm bao

    Thương em gái nhỏ năm xưa rừng Lào


    Mất còn chẳng biết thế nào

    Ba lăm năm giữ giọt sầu trong tim…!


    2008 Lu Hà



    Đánh Mất Tuổi Xuân

    Tặng em cô gái Trường sơn


    Thuở trời đất trào cơn sóng đỏ

    Hận ngàn thu giông tố mưa rơi

    Nước non bàng bạc một thời

    Cuốn theo tuổi trẻ một đời chinh nhân

    Trai với gái lưá còn rất trẻ

    Xếp bút nghiên thể chế lên đường

    Chẳng hò hẹn ở chiến trường

    Đoàn năm năm chín mở đường Trường Sơn

    Anh tòng quân chưa tròn mười tám

    Em theo sau tuổi mới trăng non

    Vì sao duyên phận lưã lần

    Yêu em mà chẳng trọn phần nỉ non

    Trong đại đội xa gần là nữ

    Luật nhà binh lành dữ biết sao

    Cấm đôi trai gái hẹn hò

    Cấm cùng đi dạo cơ hồ công khai

    Anh lén lút bồi hồi ghi tặng

    Gửi cho em vài tiếng thương yêu

    Sợ rằng đồng đội biết nhiều

    Phê bình kiểm thảo mọi điều gian ngay

    Đời ta sao khổ thế này

    Yêu nhau chẳng được tỏ bày cùng nhau…

    Cứ lầm lũi sớm chiều cuốc đất

    Mở con đường đâm nát con tim

    Hàng ngày xe chạy ầm ầm

    Chiến xa xanh lá tới miền cao miên

    Bệnh sốt rét lan tràn đại đội

    Mưả mật vàng tê tái thương đau

    Than ôi tuổi trẻ còn đâu

    Môi thâm mặt tái âu sầu làn da

    Sợ mất điểm thi đua tiến bộ

    Nên anh đành thất thố với em

    Thương em để bụng âm thầm

    Ngày đêm toan tính lo tìm lối ra

    Nhìn về miền Bắc quê nhà

    Tương lai hy vọng đang chờ đón anh

    Sau ba năm rừng xanh núi đỏ

    Gạt lệ sầu máu rỏ tim phai

    Chưa hề thề thốt nặng lời

    Anh như cơn gió một thời thoảng qua

    Rừng Trường Sơn vi vu gió thổi

    Lạnh ru hồn tử sĩ âm u

    Mây vàng lãng đãng chiều xa

    Như Hoa chẳng biết bây giờ ở đâu?

    Sống hay chết làm sao biết được

    Chỉ biết rằng một bước lưu ly

    Thương em tuổi trẻ thiệt thòi

    Đời Hoa tan nát một thời chiến chinh…



    2008 Lu Hà thương tặng Như Hoa


    Xin kết thúc phần hồi ký về những năm tháng tôi là lính công binh mở đường thuộc binh đoàn 559 bằng những bài thơ, để sang một trang, chương hồi khác.

    Kể từ tháng 9 năm 1971 tôi đăng lính và ở Trường Sơn 3 năm. Mùa hè năm 1974 tôi được gửi ra Bắc về trường văn hóa Lạng Sơn để lấy bằng phổ thông trung học, tương đương với lớp 10 mà chỉ chuyên về 3 môn toán lý hóa để thi vào đại học kỹ thuật quân sự.


    19.6.2019 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share