Trả Lời Vương Ngọc Minh Về Hữu Loan

Thảo luận trong 'Thảo luận chung' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 11 13, 2011.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Làm [Thơ] Gì Rồi Cũng Chết.

    Thế là "người bị đày đọa
    - tự đọa đày nhất việt nam
    bị nhũng nhiễu
    - tự nhũng nhiễu nhất việt nam"
    qua đời. .......

    ông hữu loan lúc trẻ
    làm bài "màu tím hoa sim"
    cho đến giờ hãy còn nhiều người khen.

    hay tin ông chết
    - sáng nay
    giữa ngổn ngang.. cái bàn/ cái ghế
    cái muỗng/ cái ly [bản tin] tờ báo
    tôi muốn đặt vấn đề lại

    - hay ở chỗ nào?

    vương ngọc minh.

    Thưa Anh Vương Ngọc Minh! Cái điều anh tâm sự thành thơ và tôi cũng dùng thơ để tâm sự lại với anh. Theo tôi bài thơ Màu Tím Hoa Sim hay là bởi chữ tâm. Lối viết giản dị nông dân cuả Hữu Loan đã khoan sâu vào lòng người nông dân Việt Nam. Hữu Loan chỉ có một cô Đỗ Thị Lệ Ninh người vợ mới cưới, chết đuối trên sông và cũng chỉ có một Màu Tím Hoa Sim độc nhất vô nhị. Hữu Loan không có nhiều cô Lệ Ninh chết đuối nưã để khóc thành thơ, thành nhiều bài Màu Tím Hoa Sim.

    Định mệnh thật trớ trêu. Nghe nói vợ Tố Hữu cũng đã từng yêu Hữu Loan, hai người họ từng là cặp uyên ương thanh mai trúc mã. Tố Hữu vì ghen tuông, biết vợ mình chỉ có Hữu Loan trong lòng mà y nổi điên nổi khùng lên, một kiểu mượn gió bẻ măng để diệt tận gốc đối thủ tình ái. Bài thơ Màu Tím Hoa Sim như cái tát vào mặt Tố Hữu, bà Tố Hữu vì vậy mà thương cảm Hữu Loan và tiếc sao mình không thành vợ thành chồng với anh chàng thi sĩ đa tình, đa cảm như Hữu Loan mà hằng ngày bà cứ phải chung chăn chung gối với một tên thi sĩ giả cầy có máu lạnh cuả đảng? Vì lý do cá nhân và bài thơ này cũng quá bi lụy thương đau theo lối ngôn ngữ dân gian mộc mạc nhà quê chân tình. Nhưng theo lối suy nghĩ cuả Tố Hữu, cuả Mao, cuả Hồ là tiểu tư sản phản động, cản trở cho cuộc đấu tranh giai cấp , làm mủn lòng bước đường hành quân ra mặt trận đánh Pháp cho Tàu cuả những con cừu Vệ quốc đoàn sẵn sàng lao vào chỗ chết hiến thân xác cho đảng. Nên Tố Hữu đày đoạ Hữu Loan để trả thù cá nhân, gọi là: "Nhất tiễn song điêu" , vưà trả thù riêng vưà đánh cả nhân văn giai phẩm. Hữu Loan bị khổ nạn là như vậy đó, đóng gạch, thồ đất, con cái bị trù dập khổ lây là một điều dễ hiểu.

    Cho nên bài thơ này người ta mua lại với lý do tế nhị để giữ bản quyền chỉ có 100 triệu đồng theo tôi vẫn còn ít. 100 triệu đồng VN khoảng 5 ngàn € tương đương tháng lương cuả một kỹ sư bình thường ở các nước văn minh, ngoài ra còn phải đóng thuế 10 cho nhà nước là 10 triêụ đồng VN. Nhà nước cộng sản đã đày đoạ ông xuống tận cùng cuả kiếp người còn muốn kiếm chác thêm ở con người khốn khổ này 10 triệu đồng nưã thì thử hỏi là cái giống gì? 90 triệu còn lại chia đều cho 10 đưá con là 60 triệu. Hữu Loan giữ lại 30 triệu để phụng dưỡng tuổi già. 30 triệu khoảng 1500 € (1500 € bằng lương thất nhiệp cuả một ngưòi lao động ở các nước văn minh ). Nghe vậy cũng đủ ưa nước mắt rồi Anh Minh ạ. Cũng có thể đòi thuế 10 % cho vở diễn cuả họ được kín đáo? Câu hỏi cuả Anh rất đúng không sai, và tôi đã làm thơ tâm sự trả lời anh.

    Còn bàn về nghệ thuật thì theo tôi bài thơ này tính nghệ thuật quá kém, giống như bài thơ con nai vàng đạp lá muà thu cuả Lưu trọng Lư vậy.
    Họ chẳng ở thứ hạng gì cả, một người thì làm thơ tự do, câu chữ tuôn ra vô tội vạ, người làm thơ ngũ ngôn không có niêm luật.
    Nhưng cả hai bài thơ ngô nghê đó lại được khen hay vì phù hợp với trình độ cuả những người cộng sản thất học, hay những anh lính bộ đội nông dân nhà quê kém hiểu biết về văn chương thơ phú. Họ chỉ cần đọc lên thấy êm tai, tủi tủi buồn buồn và họ khen hay thì nó là hay. Riêng Lưu Trọng Lư nghe nhiều người bảo con nai vàng cuả anh bắt cóc từ Pháp sang, chả là anh hay đọc thơ Pháp và dịch đại ra? Ngắn ngủi tủn mủn nhưng cũng lâm ly ra phết phù hợp với những người có trí nhớ kém và dễ thuộc lòng.

    Nếu Hữu Loan hay Lưu trọng Lư muốn trở thành thi sĩ thực sự thì các ông phải học tập nhiều hơn nưã như các vị Tản Đà, Nguyễn Bính, Hồ Dzech , Hàn Mạc Tử chẳng hạn. Chứ viết tự do theo kiểu đại trà như Hữu Loan thì không ổn. Làm như vậy có khác chi đánh xổ số đâu, không phải ai cũng đa cảm đa sầu tốt bụng như Hữu Loan mà khóc vợ thành thơ. Có thể lắm trong một lúc sự đau khổ lên đến đỉnh điểm tâm hồn sẽ thăng hoa đến cảnh gìới cuả hồn thơ. Trường hợp những cơn xốc mạnh như bị tra tấn, bị đày đoạ nhiều nhu kiểu Nguyễn Chí Thiện cũng có thể thành thơ, hết tra tấn hết đày đoạ thì không còn thơ nưã nếu cứ viết theo lối tự do. Mà có viết thì là thơ con cóc, muốn nổi thì phải có đài, báo chí quảng cáo như thơ chống Mỹ cuả Phạm Tiến Duật vậy.

    Cho nên muốn làm thơ thường xuyên người thi sĩ phải luôn học hỏi nghiên cứu về kỹ năng kỹ thuật làm thơ, luật đường, tứ tuyệt, lục bát, song thất lục bát v.v... không thể tuỳ tiện muốn viết thế nào thì viết. Vìết một đoạn văn rồi cứ xuống dòng liên tục và tự khen nhau hay như anh chàng Chế Lan Viên chẳng hạn. Theo nền mạo hoá Mao ít, Lêninít thì Hồ và các văn thi sĩ cộng sản khuyến khích lối làm thơ tự do vô tội vạ để ngu dân. Vì làm thơ theo luật theo niêm rất vất vả, nhờ vậy mà trí tuệ phát triển lên, dân trí cao hơn đảng trí thì trị thế quái nào được. Đảng đang muốn ngu dân để trị mà.

    Cũng may cho ông Hữu Loan chỉ làm thơ theo lối tự do mà cực hay vì bởi có cô vợ quá trẻ chết đột ngột. Sau này muốn làm thơ thực sự với những cảm hứng tức thì thường xuyên thì bắt buộc Hữu Loan phải học luật làm thơ cho thật đàng hoàng.

    Người Việt Nam chúng ta mụ mẫm lâu vì bị cộng sản đầu độc, nên dễ hiểu lầm. Chuyện xe đất thồ gạch cuả Hữu Loan vô tình được nhiều người truyền khẩu huyền thoại hoá. Vì lầm tưởng Tố hữu đánh Hữu Loan vì bài thơ là chính, nên vô tình thần thoại hoá bài thơ ngô nghê nhưng rất chân thành cuả anh chàng Hữu Loan và họ vội nhầm là đỉnh cao cuả văn chương.

    Nếu xét về thơ tình dưới góc độ nghệ thuật tính truyền cảm thì thưà nhận là Tản Đà, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử, Hồ Dzech, Hà Thượng Nhân v.v... viết hay, họ viết đều tay và thường xuyên và họ đều biết làm thơ đường cả, họ nắm vững quy tắc làm thơ tứ tuyệt dùng trong thơ mới không đối chữ, đối câu.

    Còn cái chuyện một doanh nhân hay một tổ chức bày trò mua bản quyền bài thơ cuả ông Hữu Loan, chưa biết chừng là do mưu mô cuả Tố Hữu, hay ban văn hoá tư tưởng gì đó. Một chiêu tung hoả mù để lấy lòng văn nghệ sĩ, xoá án nhân văn giai phẩm, giải thoát linh hồn Tố Hữu có nguy cơ đày xuống chín tầng điạ ngục, và cũng là một chính sách ngu dân hiểm độc tinh xảo trong thời theo kinh tế thị trrường định hướng xã hội chủ nghiã?

    Cũng có thể một doanh nhân nào đó thưà tiền, muốn chơi trội, hoặc quả thực có tấm lòng nhân hậu mà khéo léo tế nhị giúp đỡ cụ Hữu loan về kinh tế?

    Riêng tôi bài Màu Tím Hoa Sim hay bởi chữ tâm và tấm lòng nhân đạo thương người chứ không phải là một tác phẩm nghệ thuật cao xiêu gì cho cam. Tôi chỉ đồng ý với anh Vương Ngọc Minh một nưả như nội dung bài thơ cuả anh. Nhân tiện cũng có vài bài thơ muốn được tâm sự với linh hồn thi sĩ Hữu Loan. Tuy thơ chưa hay gọi là cây nhà lá vườn cũng muốn được chia sẻ với bạn đọc

    Xin chào anh Vương Ngọc Minh



    Ngàn Năm Vẹn Tròn
    Tâm sự cùng Vương Ngọc Minh

    Ông Hữu Loan bước vào lịch sử
    Bởi cuộc đời sầu tủi bi thương
    Giưã bầy lang sói điên khùng
    Tinh thần kẻ sĩ ngang tàng có hay

    Cõi trần thế si mê tăm tối
    Ánh hào quang sáng chói những ai?
    Hữu Loan là một con người
    Trái tim lương thiện ngậm ngùi thương đau

    Màu sim tím xót xa rỏ lệ
    Mái nhà tranh bi lụy tình quê
    Xanh lam dặm nẻo sơn khê
    Ru hồn dân tộc tái tê nỗi niềm

    Thương Hữu Loan thương luôn màu tím
    Tình vợ chồng đỏ thắm trái tim
    Cái hay là bởi chữ tâm
    Phải đâu nghệ thuật ngàn năm vẹn tròn….

    21.3.2010 Lu Hà



    Có Ai Thắp Nén Hương Sầu Cho Tôi
    chuyển thể thơ Hữu Loan: Màu tím Hoa Sim

    Phận là gái ba anh bộ đội
    Xa gia đình ở mãi chiến khu
    Em trai bé bỏng ngây thơ
    Vẫn chưa biết nói mẹ già anh thương

    Tôi Hữu Loan người chồng vệ quốc
    Đợi chờ em mái tóc còn xanh
    Kết hôn ngày đẹp tháng lành
    Không đòi áo cưới, yêu anh trọn đời

    Tôi tranh thủ mấy ngày vội vã
    Đôi dày đinh tầm tã hành quân
    Bùn lầy lưá tuổi đang xuân
    Em cười xinh xắn nồng nàn ngất ngây

    Chàng độc đáo em say giản dị
    Tình vợ chồng đắm đuối yên vui
    Cưới xong rồi phải ra đi
    Mấy ngày nghỉ phép ngậm ngùi trăng suông...

    Vẫn ái ngại tào khang nồng thắm
    Gái có chồng ảm đạm chiến tranh
    Cuộc đời vệ quốc chiến binh
    Biết đâu vĩnh biệt khi mình hy sinh?

    Cũng khối kẻ rừng xanh núi đỏ
    Nắm xương tàn mấy độ trăng thu
    Linh hồn lạc lối quê nhà
    Tìm người vợ trẻ nắng mưa dã rời

    Nhưng không chết người trai khói lưả
    Mà chết người em gái hậu phương
    Em tôi một buổi bên sông
    Cuốn trôi rờn rợn thê lương não nùng...

    Tôi xin phép về làng thăm mộ
    Mẹ tôi ngồi lã chã thương đau
    Chiếc bình hoa cưới ngày xưa
    Muội tàn bám lạnh vương sầu âm u

    Thương mái tóc vẫn chưa tròn búi
    Vội ra đi tủi hận hoàng hôn
    Ái ân chưa trọn trăng tuần
    Để anh côi cút tấm thân phong trần

    Vẫn chưa thuả lời trăn ý trối
    Dặn gì nhau lần cuối em ơi!
    Ngày xưa đồi tím sương rơi
    Áo em cũng tím lòng tôi ngẹn ngào!

    Tôi nhớ lại đèn khuya vắng vẻ
    Một mình em vá áo cho chồng
    Miệt mài trọn cả đêm trường
    Bát cơm miếng nước tình thương dạt dào

    Chiều đông bắc rừng mưa u ám
    Ba người anh thê thảm bi thương
    Cái tin em gái trôi sông
    Đi nhanh hơn cả lấy chồng mừng vui

    Gió thu sớm ngậm ngùi nước chảy
    Dòng sông quê bàng bạc trăng ngàn
    Em trai mới lớn băn khoăn
    Ngỡ ngàng ảnh chị lệ tràn bờ mi

    Gió hiu hắt mây trời bảng lảng
    Chiều hành quân qua những đồi sim
    Cỏ vàng héo uá trong tim
    Nỗi buồn lay lắt im lìm bước đi

    Muà sim chín lòng tôi tha thiết
    Cảnh chiều hoang biền biệt Ninh ơi!
    Ai hò biển lá xa xôi
    Vô tình ác ý giưã đời thương đau...

    Chiều hoang tím vàng thu không ngớt
    Tôi ngân nga tha thiết lời ca
    Áo anh sứt chỉ đường tà
    Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu...

    Muà sim chín càng đau rớm lệ
    Gió thông reo tê tái hồn thơ
    Nấm mồ cỏ dại hoang vu
    Có ai thắp nén hương sầu cho tôi!

    20.3.2010 Lu Hà
    Tỏ lòng ngưỡng mộ thương nhớ tới thi sĩ Hữu Loan




    Bác Hữu Loan Ơi !
    chuyển thể thơ Hà Phương: Giận Bác Hữu Loan

    Cháu giận Bác ra đi vội vã
    Để cho đời nức nở thương đau
    Bên đồi sim tím hoang vu
    Mưa ngâu sùi sụt nụ hoa đầu muà

    Đồi sim tím âu sầu năm tháng
    Giưã đất trời lãng đãng sương rơi
    Thương yêu nhớ vợ u hoài
    Bến sông hoa nở ngậm ngùi em ơi!

    Cõi trần tục tỉ tê khâm phục
    Một đời người khổ cực bi thương
    Đoạ đầy Tố Hữu bất lương
    Đấu tranh giai cấp thù riêng vợ chồng

    Vợ Tố Hữu mặn nồng duyên cũ
    Nhớ Hữu Loan món nợ thâm tình
    Tiểu nhân sủi bọt râu xanh
    Ghen tuông rờn rợn tử sinh phong trần

    Cháu khóc bác Hữu Loan thuở nọ
    Buổi loạn ly điên đảo trần ai
    Biển dâu một cuộc vơi đầy
    Cam lai khổ tận giưã đời thương đau

    Đồi sim tím muà hoa ngào ngạt
    Gió vi vu tha thiết người ơi
    Linh hồn ở chín tầng mây
    Bồng lai bột hải cõi trời vân du!

    29.3.2010 Lu Hà




    Nhớ Đồi Tím Hoa Sim
    tặng nhà thơ Hữu Loan

    Gió sớm hương về gọi nắng thu
    Bâng khuâng tâm dạ nhớ hồn thơ
    Thương chàng thi sĩ giòng sông mã
    Nhớ vợ hồn ma hẹn bóng chờ

    Tôi biết rằng anh khóc đã lâu
    Nỗi niềm đau khổ suốt canh thâu
    Trái tim thi sĩ tình trong trắng
    Hồn đã ghi sâu tấm mộng đầu

    Tôi đọc bài thơ của Hữu Loan
    Tấm lòng thương vợ khóc thi nhân
    Gọi anh như thuở ngày xưa đó
    Khắc ở trong tim một nỗi buồn

    Ai đã xem thơ cũng nghẹn ngào
    Thương anh vệ quốc cuả ngày xưa
    Hành quân ngang trái muà sim chín
    Tím cả lòng anh lúc xế tà

    Anh khóc vợ anh em gái xưa
    Tình nàng dấu kín lúc khi nào
    Mẹ Cha dạm hỏi mà chẳng biết
    Như trái tim non trái chín muà

    Từ chiến khu ba anh đã về
    Không đòi áo cưới gái làng quê
    Hương thơm giản dị màu sim tím
    Thơm mái tóc xanh hẹn nỗi thề

    Mấy ngày nghỉ phép cưới là đi
    Đọng lại môi anh một nụ cười
    Thương em gái nhỏ chiều quê ấy
    Trằn trọc mưa rừng chỉ nhớ thôi

    Ai biết làm sao được hở trời
    Dòng sông rờn rợn quấn em đi
    Lưả tình đôi lưá muà xim chín
    Chẳng trọn tuần trăng hẹn với người

    Anh chạy về thăm bóng xế tàn
    Mẹ ngồi mộ tối khóc bên con
    Bình hoa ngày cưới tàn đông lạnh
    Mái tóc em xanh búi chưả tròn

    Số kiếp loài người bạc thế sao?
    Thương anh vệ quốc thuở năm nao
    Phu thê chăn gối chưa tròn tháng
    Mà đã tan ra một cánh sầu

    Nặng nghĩa ân tình ôi thế nhân
    Bài thơ muôn thuở nấc nguồn cơn
    Thương đau cho dấu đồi sim tím
    Biền biệt chiều quê bóng xế tàn

    Nếu phải một đời đi vắng xa
    Tình quê Nam Việt vẫn bao la
    Hôm nay ngồi đọc đồi sim tím
    Vương vấn lòng ta nỗi nhớ nhà!

    24.8. 2008 Lu Hà



    Tình Quê
    chuyển thể thơ Hữu Loan: Hoa Luá

    Hương ngào ngạt đồng xanh hoa luá
    Đôi mắt nhung chan chưá người ơi!
    Mênh mông thăm thẳm chân trời
    Cay đa giếng nước bồi hồi tình quê

    Trải gió bụi sơn khê vạn nẻo
    Nhạc quê hương cổ độ trăng lên
    Xôn xao chim chóc vang ngân
    Lời ca như thể mưa ngàn suối reo

    Gió thu sớm vi vu thánh thót
    Để lòng anh tha thiết hội muà
    Đánh đu vật trụi cuộc cờ
    Dân ca quan họ mặn mà xa bay

    Trai với gái thôn đoài thôn thượng
    Ván thăm thuyền một mảng trầu cau
    Yêu nhau cởi áo cho nhau
    Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay

    Núi bát ngát sông đầy hương nội
    Khói sương lam phủ mái nhà tranh
    Ngân hà một khoảng trời xanh
    Mười mong chín nhớ cho mình yêu nhau

    Cầm bàn tay đậm đà ân ái
    Tuổi hai mươi một trái tình si
    Ngực căng mắt biếc xa xôi
    Tràn đầy nhưạ sống tuổi đời trắng trong

    Một toà ngọc hiền lương đắm đuối
    Thương quê hương bất diệt tình em
    Tào khang trọn nghiã tình thâm
    Răng long tóc bạc thì thầm thông reo

    22.3.2010 Lu Hà

    Chuyển thể từ thơ tự do cuả Hữu Loan viết tặng vợ, đã có 10 mặt con với ông
     
    Last edited by a moderator: Thg 11 13, 2011

Chia sẻ trang này

Share