Tiểu Sử Hư Vô

Thảo luận trong 'Hư Vô' bắt đầu bởi việtdươngnhân, Thg 12 20, 2011.

  1. việtdươngnhân

    việtdươngnhân Bình Chánh

    Tham gia ngày:
    Thg 3 18, 2011
    Bài viết:
    639
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Nơi ở:
    Paris
    Web:
    [​IMG]
    Hư Vô


    Tên thật:

    Hùng Võ

    Nghề nghiệp:

    Kiến Trúc Sư, Đại Học Kiến Trúc Sàigòn

    Sinh quán:

    An Xuyên (Cà Mau, Việt Nam)

    Trú quán:

    Sydney, Australia

    Tác phẩm:

    -Thành Phố Anh Đến, Thơ 1974

    -Chúng Mình Mất Hết, Chỉ Còn Nhau, Thơ 2007

    -Tuyển Tập 6 Nhà Thơ Úc Châu,Thơ 2010, (in chung với 5 tác giả khác)

    -Người Tình Hư Vô, Thơ 2011

    -Người Tình Hư Vô, CD 2011 (gồm 12 bài thơ được phổ nhạc bởi Phạm Quang Ngọc)

    Sẽ in:

    -Lưng Nguyệt, Thơ.

    -Đường Vào Bể Dâu, Hồi Ký

    -Bản Thảo Hư Vô.​
     
  2. việtdươngnhân

    việtdươngnhân Bình Chánh

    Tham gia ngày:
    Thg 3 18, 2011
    Bài viết:
    639
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Nơi ở:
    Paris
    Web:
    Thơ Hư Vô,
    Ngọn Lửa Đang Cháy Bùng Trong Yên Lặng
    Kiên Nguyễn

    Hầu như về tất cả mọi phương diện, thế giới chúng ta sống ngày nay đã khác quá xa với thế giới đã được biểu lộ qua những dòng thơ của Hư Vô. Trong thơ của Hư Vô, Sàigòn là miền đất của những cặp tình nhân trẻ trung, yêu đời, yêu người. Thật vậy, tình yêu là một đề tài bất hủ khi ông viết về khoảng thời gian đó.

    Tại em bước vội qua cầu,
    Đâu hay ngọn tóc vướng vào vai anh…
    (Người Tình Hư Vô)

    Hoặc:

    Nắng trong veo, thấu lụa là
    Áo em mỏng quá lòng ta gập ghềnh
    Dù là một thoáng lênh đênh
    Đã nghe mùa hạ chảy trên phím đàn.
    (Aó Hạ Vàng)

    Đó là một thế giới tình yêu thật thà, đơn giản, thơ mộng, thủy chung, hiếm hoi và bất diệt dường như không còn thấy trong thế giới yêu đương thời hiện đại.

    Đâu biết trước đời nhiều dâu bể
    Chạy loanh quanh tóc đã hai màu
    Tìm được lối về, trăng rơi xuống đất
    Chúng mình mất hết, chỉ còn nhau
    (Chúng Mình Mất Hết, Chỉ Còn Nhau)

    Với phong cách phóng bút điêu luyện thơ tình của Hư Vô thủ thỉ với độc giả như những câu hò, lời ru tiếng hát không phải chỉ để tiêu khiển trong giây phút ngắn ngủi. Nó hàm chứa nhiều sự rung động của trái tim chan chứa tình yêu cùng thú đau thương tuyệt vời mà tác giả đã cho chúng ta cảm nhận được.

    Cuồng say hơn rượu phạt
    Uống cho đầy một hơi
    Cạn ly chưa cạn cuộc
    Bên môi xưa rã rời.

    Em ơi, đừng bối rối
    Đời còn có bao lâu
    Chắc gì nụ hôn cuối
    Hay chỉ mới bắt đầu.

    (Lận Đận Tìm Môi Nhau)

    Giống như những bài hát trữ tình, thơ của ông cô đọng được nhiều nỗi ngọt ngào cay đắng của một mối tình lãng mạn. Tình yêu là linh hồn của tác giả, trong mỗi bài thơ dường như là một hơi thở từ tâm linh giục giã gọi nhau về. Ông đã mở rộng lối để có thể quay đi hoặc bước tới trước ngưỡng cửa của tình yêu.


    Sau cánh cửa là thiên đàng.
    Mở ra. Lạ chỗ, bàng hoàng hương đêm,
    Khép vào. Một cõi vô biên.
    Giữa đường trăng mật còn thơm môi trần.

    (Lạ Chỗ)

    Mối tình mà ông mong đợi, như ẩn như hiện, mơ hồ ảo vọng, hình bóng “ai” như có như không, thoảng qua như bóng như vang, chốc đã trôi về phương trời biền biệt... xa thẳm…

    Gửi em sợi nắng vô thường
    Về phơi nhan sắc hoang đường bên song
    Em hình như có. Như không
    Ta nghiêng cổ xuống giữa thòng lọng cao…
    (Như Không)

    Hoặc:

    Hồn phách chia lìa đêm lạnh cóng.
    Thật có em, thật có ta không?
    (Sắc Không)

    Tác giả tâm sự với độc giả qua ngòi bút điêu luyện, mỗi câu thơ là một âm vang lên xuống nhịp nhàng, tha thiết, mối tình tuyệt đẹp đã từng đến và đi ngang qua cuộc đời - êm ả, cuồng bạo như một luồng gió mạnh cuồn cuộn qua một cánh đồng mênh mông rồi tan biến vào hư vô.


    Tôi vo tròn sợi tóc em huyền tuyệt
    Buộc lại trần ai mối gút thăng trầm
    Lần mò mãi vuột tay vào vô tận
    Níu áo em về một nhúm hư không!

    (Valentine, Mùa Vàng Son Đã Mãn)



    Nếu văn chương được thể hiện qua một cuốn tiểu thuyết dài thì độc giả có nhiều thì giờ để hiểu rõ về những nhân vật trong truyện. Người viết bỏ rất công phu để tô điểm cho những nhân vật chính trong truyện của họ. Nhưng trong một bài thơ ngắn ngủi văn chương rất là bị hạn chế bởi vì người viết cũng như người đọc chỉ có một sự lựa chọn duy nhất là dành rất ít thời gian cho nhân vật trong thơ. Bởi vì sự hạn chế này thì làm sao có thể bộc lộ được nỗi buồn vô hạn của một mối tình tuyệt vọng đã không còn nữa?

    Đường đã cùng đã tận
    Đâu còn chỗ rút chân
    Lạnh tanh dòng trăng rụng
    Nguyệt khuyết dấu lưng trần...

    (Động Nguyệt)


    Từ một cõi riêng của Hư Vô, với ngòi bút lão luyện và tâm hồn gắn bó trong văn chương ông đã chú trọng đến giá trị nghệ thuật văn học, vẻ đẹp gợi cảm, âm điệu nhịp nhàng, trang nhã và sang trọng của từ ngữ, cùng với những dòng thơ xúc tích ông đã gói ghém và trừu tượng hóa tình yêu của ông. Những uẩn khúc của tác giả trong tình yêu đã giúp ông che đậy những vết thương lòng.

    Cõng cùng cái nỗi buồn tôi
    Chân chưa động đất đã còi cọc em

    Đường xa lạ hoắc lạ quen
    Đâu còn ai đợi mà chen chúc vào.

    (Cõi Không Chân)

    Những dòng thơ càng ẩn dụ chừng nào thì từ ngữ trong thơ của ông dùng càng chính xác điêu luyện chừng đó và vì thế sự đớn đau mất mát càng sâu sắc và thâm thúy. Vì những lý do đó vết thương của trái tim
    tan vỡ đã được trang trải lên những bài thơ bằng những từ ngữ tượng hình, bóng bảy với âm điệu trữ tình lãng
    mạn.

    Hỏi ta hồn phách đong đưa
    Nghiêng hai con mắt cho vừa vặn đau
    Một đời chổng cẳng hư hao
    Đợi trăm năm nữa có lâu lắc gì!


    Ta ngồi giữa lúc ta đi
    Đường trần riêng một lối về, đó em
    Mất nhau chưa kịp gọi tên
    Trăng khuya mãn nguyệt, miếu đền bỏ hoang…

    (Đợi Trăng)

    Những dòng thơ hợp lại với nhau thành một tập thơ đã kết tụ một luồng ánh sáng chiếu thẳng vào tâm hồn của tác giả, phản ảnh tình yêu của ông với một người
    yêu độc nhất vô nhị - người yêu trong thơ đã cùng với tác giả rong chơi đắm say trên con đường tình ái trầm luân nghiệt ngã.

    Nói tóm lại tập thơ bất hủ này đã cho tác giả một giọng nói mãnh liệt, diễn đạt được những ý tưởng thầm kín, lột tả được từng chi tiết nhỏ nhất, sống động của một ngọn lửa tưởng chừng như đã nguội tàn nhưng vẫn còn âm ỹ cháy trong tâm hồn đau đớn của tác giả với người tình qua những tháng năm dài chia cách.

    Nhưng bạn hãy coi đi, tình yêu thơ mộng tuyệt vời đau đớn này sẽ còn dư âm văng vẳng mãi đến bất tận.

    Kiên Nguyễn
     
  3. việtdươngnhân

    việtdươngnhân Bình Chánh

    Tham gia ngày:
    Thg 3 18, 2011
    Bài viết:
    639
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Nơi ở:
    Paris
    Web:
    Nét Khúc Xạ Duy Thực Luận
    Trong Thơ Tình Lãng Mạn Của Thi Sĩ Hư Vô…

    Vương Thiên Vũ

    Trong bài thơ Uất kim hương, Thi sĩ Hư Vô đã cho thế nhân một ý niệm, một định nghĩa về thơ tình lãng mạn như là niềm tin vĩnh cửu vào giá trị đích thực của những sự kiện xảy ra trong cuộc sống hằng ngày hơn là đi tìm chân lý hữu thể “Chân thiện Mỹ “của lời thơ:

    Đừng hỏi những câu thơ vô nghĩa
    Vội vàng anh viết <<Qu’est – ce que l ‘amour?>>
    Chính anh viết, anh còn không hiểu
    Tự điển nào cắt nghĩa nổi chữ yêu.

    (Uất kim hương, Qu’est – ce que l’amour? Thơ Hư Vô)

    Nếu thế nhân lạc vào vườn thơ tình lãng mạn của thi sĩ Hư Vô, nếu có thời gian mà ngâm vịnh theo bốn mùa của đất trời để tìm hiểu nhiều khía cạnh về con người, lòng yêu thương, cảm xúc, tình cảm …như là tìm về con người thực của chính mình (Hữu Tự Tại = Tiểu Ngã) trước không gian bao la của vũ trụ, thì hỡi thế nhân xin hãy đừng ngần ngại chi, mời vào lâu đài văn chương, đắm mình theo lời thơ, tiếng nhạc …của thơ tình lãng mạn của thi sĩ Hư Vô để được tắm gội trong suối nguồn vô thức của dòng sông biến dịch Heraclitus, và hiểu rằng đàng sau thân thể và tâm trí, con người còn có một cái gì khác và chính cái khác này cấu tạo nên cái tôi đích thực của mỗi cá nhân:
    Con người là sinh vật cảm nhận được những biến chuyển của tâm linh và những biến động của vũ trụ và thường ghi nhớ bao nỗi niềm thương cảm chất ngất tình người để biết rằng con người đang hiện hữu: Sự quay nhìn về thời xưa cũ và soi mình vào quá khứ của thời gian để ghi nhận những nét diễm kiều, huy hoàng, rực rỡ … của những hoàng hôn dĩ vãng và đón nhận những bình minh rạng rỡ của ngày mai như là tình yêu mến những tâm hồn sinh động của thế nhân, được thi sĩ Hư Vô ghi lại bằng lời thơ như là ông đã khắc lên vũ trụ vạn lời yêu thương:

    Cõi ta, như đã mơ hồ
    Cõi em, từ độ hư vô tượng hình
    Giật mình hồn vía phiêu linh
    Cơn đau đã đến thình lình đó em
    (Cõi hoang – thơ Hư Vô)

    Thi nhân đi tìm những bí ẩn sinh động trong cuộc sống với không biết bao nhiêu ưu phiền, trầm luân…bao gồm cả một dòng sông dĩ vãng, cả một thời xưa cũ, cả một dòng năm tháng đã trôi xa …và nó vẫn hiện hữu và biến động để hình thành một tương lai với những ước mơ, những kỳ vọng …cho một ngày mai tươi đẹp …
    Mời thế nhân buông bỏ những ưu phiền buồn khổ của kiếp nhơn sinh ngắn ngủi, hãy để tâm hồn mình lắng động mà nghe lời thơ tạ tình thay hồn vô ngôn với những ẩn dụ vẫn hằng hiện hữu và mãi trường tồn trong dòng sông biến dịch của sinh thức: tình yêu thương và những tuyên ngôn của lòng trắc ẩn, chất chứa bao niềm thương cảm về sự hiện hữu của con người trong vũ trụ bao la, dẫu biết rằng thời gian thì biến dịch, không gian thì vô tận…và tất cả luôn luôn chuyển động ngoài tâm thức của con người nhưng ý chí, tâm hồn, tình cảm ….của con người thì nó vẫn hiện hữu và sừng sững như cội thông già trên trường sơn lộng gió …

    Anh một đời nghiệt ngã
    Cát lùa vàng dấu chân
    Em bến bờ xa lạ
    Khóc hoang phế đường trần.
    (30 năm chưa gặp - thơ Hư Vô)

    I - Ngôn Ngữ Thơ Hư Vô Với Ẩn Dụ Văn Chương

    1 – Vài nét về nhà thơ Hư Vô

    Thi sĩ Hư Vô tên thật là Hùng Võ, quê quán An xuyên, tỉnh Cà Mâu cuối trời Việt Nam, tuổi Kim Ngưu, nghề nghiệp kiến trúc sư, tốt nghiệp viện đại học kiến trúc Saìgon,
    Đã có nhiều bài viết đăng trên sách, báo, tạp chí văn chương…xuất bản tại Huê Kỳ, Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi … và trên những trang Web trên thế giới ,
    Hiện là chủ biên trang thơ trên bán tuần báo Việt Luận Úc Châu, Phó chủ bút Văn Đàn Đồng Tâm tại Huê Kỳ.
    Những tác phẩm đã phát hành: Thành Phố Anh Đến (thơ 1974), Chúng Mình Mất Hết , Chỉ Còn Nhau (thơ 2007), Người Tình Hư Vô (tập thơ 2011) và CD Người Tình Hư Vô (2011, gồm 12 bài thơ Hư Vô, nhạc sĩ Phạm Quang Ngọc phổ nhạc).
    Đường Vào Bể Dâu (hồi ký), Lưng Nguyệt (tập thơ), Bản Thảo Một Cõi Thơ Hư Vô (tạp bút) sẽ xuất bản.

    2 – Khái luận về ngôn ngữ thơ

    Trong tác phẩm Văn Đàn Bảo Giám của học giả Trần Trọng Kim xuất bản năm 1926 có bài thơ
    “Khóc Bằng Phi “của thi hào Dục Tông (Hoàng đế Tự Đức) có hai câu thơ mà hồn thơ ngân vang lời yêu thương miên viễn, ý thơ gợi bóng và hình quyện vào nhau trong một lời thơ mang nặng âm hưởng Duy thực Luận với những nét đẹp tính thủy chung trong tình yêu diễm ảo:

    Đập cổ kính ra tìm thấy bóng
    Xếp tàn y lại để dành hơi


    Hỡi thế nhân! hãy xếp tàn y lại mà nghe tình yêu thăng hoa, tỏa mùi trinh nguyên ónh ánh, những ngại ngùng thẹn thùng, da diết, quấn quít…của đôi tâm hồn son trẻ, có cùng một hướng nhìn về tương lai…theo những bản tình ca dìu dịu; tràn ngập hương nồng của những nụ hôn đầu đời không vướng bận những hạt bụi trần :

    Có gì đâu để phân vân
    Ta và em, hạt bụi trần, thế thôi
    Đời sau, em được làm người
    Đừng quên da thịt, một thời cõi ta…
    (Cõi hoang - thơ Hư Vô)

    3 -Vài nét về cấu trúc ngôn ngữ thơ Hư Vô:

    Ngày nay khoa ngữ học văn chương đã xử dụng phương pháp đối chiếu ngôn ngữ để phân biệt ngôn ngữ văn học thông dụng và ngôn ngữ thơ nhạc:
    Ngôn ngữ văn học bao gồm ngôn ngữ đối thoại, thư từ, thông cáo, quyết định …. lấy ý niệm thực tế làm căn bản, mang tính thực dụng và đặt trên quan hệ viết và đọc vì thế phải rõ ràng, trong sáng, thực dụng … và ngôn ngữ thơ mang nặng tính trừu tượng với nhiều ẩn dụ, có tính hư cấu…vì thế nó những đặc tính sau :
    -Tính đích thực và hàm nghĩa (Connotation): mang nặng nhiều cảm tính nhưng vô thủy vô chung, hiện hữu thực tế, trường tồn và bất biến …nó phản ảnh chính nó bao gồm những ưu tư, phiền muộn, tương đắc, lãng mạn, tha thiết, ray rức, cảm thông ...

    Lần đầu môi biết tìm môi
    Nhọn tựa chiếc lá đâm chồi gai non
    Đẹp như con gái Sàigòn
    Đêm ngồi xõa tóc cho còn thơ ngây
    (Lá đêm - thơ Hư Vô)

    -Tính nghịch lý (Paradox): mang nặng tính hư cấu, không cụ thể, thiếu tính thực dụng, quy chiếu “tri và hành“…nên nó vươn mình theo óc tưởng tượng của thi nhân mặc cho không gian có đổi thay, thời gian có lửng lờ trôi theo ngàn năm mây bay…: nó vẫn hiện hữu như từng hiện hữu: đây là một thực tế sinh động với muôn ngàn hệ lụy: ….

    Tám mươi năm, mẹ vẫn còn ngồi đợi
    Thằng con trở lại với cội với nguồn
    Để thấy tóc mẹ trổ màu bông bưởi
    Rụng xuống thơm tho, trắng cả góc vườn
    ….
    Tám mươi năm mẹ vẫn ngồi vá áo
    Mắt nhạt nhòa theo mũi chỉ đường kim
    Kim khâu cả đời chưa lành nỗi nhớ
    Thì sợi chỉ nào vá nổi trái tim…
    (Tám mươi năm , mẹ vẫn ngồi đợi - thơ Hư Vô)

    Mẹ Việt Nam ơi! tám mươi năm mẹ vẫn ngồi đợi, vẫn chờ những người con vong thân trên bờ ảo mộng duy vật, đã gây không biết bao nhiêu chinh chiến điêu linh, bao hoang tàn đổ nát, bao hận thù dân tộc…với hàng triệu thây người gục ngã…và bây giờ đây quê hương Việt Nam mãi điêu linh khốn khổ… và đang đứng trên bờ hiểm họa diệt vong thì sợi chỉ nào vá nổi trái tim của Mẹ! Mẹ Việt Nam ơi!….. : Thơ Hư Vô mang bầu nhiệt huyết sục sôi niềm uất ức, nghẹn ngào, thương cảm mẹ Việt Nam và niềm hy vọng vẫn là ước mơ những người con lầm đường lạc lối hãy quay về với cội nguồn dân tộc…

    -Tính đa hiệu (Plurisignation): Ngôn ngữ thơ dù được dù được gieo mầm ở bất cứ khung trời nào và dù phải trải qua bao tình huống khó khăn khắc nghiệt của thời tiết nó vẫn mãi cưu mang những tình cảm của con người như: suy tư, cảm xúc, thương yêu ….và luôn luôn được thi nhơn thẫm mỹ hóa bằng những thực hữu cho lời thơ thăng hoa vậy.
    Trong ngôn ngữ thơ phải ẩn tàng, chất chứa ngữ âm, điệu bộ, dáng dấp …của nhà thơ
    Qua cảm xúc của thi nhân, ngôn ngữ thơ mang đầy đủ nhạc điệu, tiết tấu, âm thanh .. được gói trọn vẹn trong lời thơ cho nên ngôn ngữ thơ luôn luôn mang tính đồng nhứt, toàn diện, mạch lạc, trong sáng ..
    Tính thực dụng hay khả năng cảm nhận qua những mẫu đối thoại, những tình tiết, những cảnh ngộ, những tâm tình … của từng nhân vật được thi nhân diễn tả…và người đọc cảm nhận bằng trực giác, tri giác, tình cảm…: Thì hồn thi ca sẽ xuất hiện như ngôn ngữ mà nó được mô tả, nhưng nó cũng chính là nó …
    Vậy tính đa hiệu của ngôn ngữ thơ dẫn người đọc đến ý niệm chủ định (Intentionalism), cho nên chữ nghĩa thơ văn mà nhà thơ Hư Vô xử dụng đầy tính“Duy Thực Luận“ phản ảnh những tình cảm, những thương yêu, những cảm xúc…thật tuyệt vời với bao nhiêu sinh thức vẫn hiện hữu trong con người …từ lúc môi trần..

    Từ đêm tháng bảy môi trần
    Em ngồi trang điểm dự phần dung nhan
    Tim tôi cửa nẻo hoang tàn
    Có em khép mở ngổn ngang một đời
    ….
    Cũng may còn nửa đời sau
    Để mưa ngâu kịp bắc cầu em qua
    Mong manh như dãy lụa là
    Em từ huyền thoại bước ra muôn trùng
    (Sinh nhật tháng bảy – thơ Hư Vô)

    Thi nhân sống với niềm cảm xúc dâng trào quyện vào với bao kỷ niệm của những tháng ngày dĩ vãng…được diễn tả bởi những ngôn ngữ về dĩ vãng như: buị thời gian, đằng đẵng mấy mùa thu, héo hon đợi chờ, thời ấu thơ, mơ ước của ngày xanh ….

    Như dòng sông chia hai nhánh rẽ
    Lòng vẫn y nguyên những ngọt ngào
    Mơ ước một lần, dù ít ỏi
    Có em bên đời, sống chết như nhau
    (Chúng mình mất hết, chỉ còn có nhau – thơ Hư Vô)

    “Sống chết như nhau“, một ý niệm về sự hiện hữu của thân xác và tâm linh được thi nhân xử dụng để diễn tả ý niệm thời gian theo quy trình tạo dựng và phá hủy của mọi vật thể hữu hình: một tri thức bắt đầu bằng trực giác và nó cũng chính là cảm giác.
    Vào Duy Lý Luận của đại triết gia Kant, Immanuel ( 1724 – 1804 ) thì đối tượng của trực giác là hiện tượng ( Erscheinung, Appearance ) bao gồm yếu tố vật chất và hình thể của hiện tượng và hình thể thuần tuý của cảm giác là không gian và thời gian mà không gian là hình thức của tất cả cảm giác ngoại tại và thời gian là hình thức cảm giác nội tại.
    Vậy căn cứ vào những yếu tố kể trên, mọi người thừa nhận rằng đại triết gia Kant, Immanuel và ngay cả thi sĩ Hư Vô có cùng một nhận thức mang dấu ấn Duy Lý Luận trong văn chương.
    Quả thực vậy con người nhận biết vạn vật qua hiện tượng (Erscheinung, Appearance) và trí năng (understanding): vậy trí năng là khả năng suy tư các dữ kiện bằng ý niệm và kết hợp với cảm giác tạo thành tri thức về các đối tượng: ngôn ngữ thơ của thi sĩ Hư Vô mang dấu ấn Duy Lý Luận trong cuộc hành trình tìm kiếm giá trị đích thực của Chân, Thiện, Mỹ là tìm về bản thể (substance) là phạm trù đầu tiên cùa mọi vât thể :

    Một ngày tháng tư đang cơn hấp hối
    Tôi lao vào lửa khói tới đón em
    Phố xá tan hoang mịt mù thuốc súng
    Chiếc ghế ngồi chung chổng cẳng ngỡ ngàng
    (Saigòn tháng tư – thơ Hư Vô)

    Thi hào Trần tử Ngang xúc động trước sự hửng hờ của thời gian: thời gian vẫn cứ quay đều, không ngừng nghỉ: một sự yên lặng kinh hồn: như vạn lời thơ vô ngôn :

    Tiền bất kiến cổ nhân
    Hậu bất tri lai giả
    Niệm thiên địa chi du du
    Độc thương nhiên nhi thế hạ
    Đăng U Châu Đài Ca thơ Trần tử Ngang
    Dịch nghĩa : Ai người trước đã qua
    Ai người sau sẽ tới
    Ngẫm trời đất mông lung
    Lòng ta rơi lệ thảm
    Dịch thơ : Hướng về trước , người xưa vắng vẽ
    Ngoảnh lại sau , quạnh quẽ cô đơn
    Ô hay trời đất dài lâu
    Lòng ta ngấn lệ, hạt sầu rụng rơi
    (“Bài ca lên đài U Châu“ thơ TTN, VTV dịch)

    Vậy căn cứ vào tính đa hiệu của ngôn ngữ thơ, thơ của thi sĩ Hư Vô hàm chứa tính minh triết của những sự vật hiện thưc và tính thực hữu của “Tiến trình thực hữu của những hiện thực“
    (Ordre des coexistences và “Tiến trình biến thể của những sự việc sẽ hiện hữu“ (Ordre des successions possible) theo quy trình sinh diệt của thời gian
    Ngôn ngữ thơ Hư Vô phản ảnh những hình thái sinh động của trực giác có được qua kinh nghiệm, xuất phát từ ý niệm chủ quan của chủ thể, được xếp vào loại lý tưởng siêu nhiên
    (idéaltité hanscendantale) phát triển từ khối óc thông tuệ của một tâm hồn đầy huệ khí và được chứng nghiệm bởi những cảm nhận với chiều sâu thẳm của cảm tính tình cảm, tri thức được gạn lọc qua ý thức (donnée immediate de la conscience) và thăng hoa cho lòng thương yêu tràn ngập con tim thế nhân vì thế nó vượt ra khỏi phạm trù ngôn ngữ văn học và luận lý biện luận và phản biện; đây là hồn vô ngôn của thơ Hư Vô, là thủ pháp văn chương ẩn hiện những nét đẹp thẫm mỹ của ngôn ngữ (tính cân đối), vừa tinh anh trung thực như là chân lý hữu thể : Chân, Thiện, Mỹ;

    Ngồi xuống đi em, chiều đã giáp
    Cùng anh uống cạn chén bạc đầu
    Ba muơi năm cũng đâu dài lắm
    Chắc gì đã đủ để quên nhau
    (Quán tao phùng – thơ Hư Vô)

    II – Nét Khúc Xạ Trong Thơ Tình Lãng Mạn của Hư Vô

    Vào thế giới chữ nghĩa văn chương của một nền văn hóa là con người mở một cuộc hành trình đi tìm “Chân, Thiện, Mỹ “để làm phong phú đời sống tâm linh nhằm xây dựng hạnh phúc của cuộc sống hiện tại và khai triển những ước mơ cho một ngày mai tươi đẹp.
    Trong tiến trình đó, thi sĩ Hư Vô, đã xử dụng một bút pháp văn chương đầy tính khai phóng để diễn tả những tư tưởng mới, đầy màu sắc của những hoa thơm, cỏ lạ …của ngôn ngữ thơ…để tô điểm những cảm xúc tuyệt vời của thi nhân và trân trọng nó cũng như hơi thở của chính mình nhằm ca ngợi sự tự do suy nghĩ, viết lách…: mà tự do suy nghĩ và sáng tác chính là những tâm thức sinh động của tất cả những hữu thể tự quy.
    Nếu định nghĩa: “văn hóa là tòan bộ những thụ đắc về văn chương, nghệ thuật, thủ công nghiệp, kỹ thuật, khoa học, phong hóa, luật lệ, cơ chế, tục lệ truyền thống, cách suy nghĩ, cách ứng xử và xử dụng thuộc mọi lãnh vực, những lễ nghi, những thần thoại và tin tưởng: tạo nên một di sản cộng đồng và đặc tính của cả nước, một dân tộc hay một nhóm sắc dân, một quốc gia …”
    Căn cứ vào định nghĩa nói trên và dựa vào sự khai phóng ngôn ngữ thơ của Hư Vô , mọi người sẽ cảm nhận được lý tính văn học và những ý nghĩa tốt đẹp văn chương và những tư tưởng trong sáng của suy tư, của ước mơ … với mục đích hoàn thiện tâm linh của con người hay một cộng đồng thì có thể nói, thi sĩ Hư Vô: một nhà thơ khiêm ái, đầy mẫn cảm và là một người hoạt động văn hóa cộng đồng

    Ghềnh khơi con nước động tình
    Mùa thu cởi áo, phơi hình hài em
    Tơ vàng trải lối chưa quen
    Ngại em dốc lạ, đường trơn khó vào…
    (Người tình Hư Vô – thơ Hư Vô)

    Vào thu, muôn lá vàng bay và cây sẽ trơ trụi lá trong đông tàn lạnh lẻo: Nhưng cây vẫn sống và em vẫn sống, em phải sống cho dù em phải thay áo mùa thu, hơi thu khẻ lạnh khi gió heo mây về và vào những ngày đông tàn lạnh lẻo và khi niềm cô đơn đã lên ngôi: Cây phải thay lá và đổi màu lá theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông: Để cây sống còn, và cây vẫn sống và nó chính là nó: thơ Hư Vô: Hồn Vô Ngôn.
    Thơ Hư Vô: Hồn Vô Ngôn và Duy Thực Luận của triết gia Aristotle có cùng luận lý triết học và cả hai cùng có một nền móng tư tưởng về “cái chung của hữu thể sự vật“ .
    Duy thực Luận của đại triết gia Aristotle đặt “cái chung của hữu thể sự vật“ trên các phạm trù bất biến và tri thức cảm giác của con người vào cái chung trong các phạm trù : “bản thể, phẩm chất, số lượng, liên hệ nhân quả, không gian, thời gian, vị trí, trạng thái , tác động và thụ động”.
    Và nếu mọi người cảm nhận rằng tri thức của con người được hình thành như là bản thể của Đại Ngã, thì con người khi đã hiểu hay đã giác ngộ được thân phận nhỏ bé, sự hiện hữu vô thường, cái có và không, quy luật sinh diệt, cái chết ở một ngày mai …tất cả thuộc về tương lai vô định, tức là con người đã thoát ra khỏi Tiểu Ngã mê lầm mà hòa nhịp cộng hưởng cùng Đại Ngã mà Đại Ngã chính là nguyên nhân vận hành vũ trụ, có quyền năng trên sự sống của vạn vật: Đó chính là lẽ sinh tồn của vũ trụ,
    Thơ Hư Vô đã thoát ra khỏi Tiểu Ngã của chính thi nhân và quyện vào Đại Ngã vũ trụ: Triết gia Aristotle, đại tiền bối và nhà thơ Hư Vô, tiểu hậu sinh, cùng quy chiếu vào Đại Ngã và cả hai có cùng nhân sinh quan nhóm màu Duy Thực Luận :

    Hãy níu hồn nhau vào nhịp thở
    Để em không còn kịp bỏ đi
    Màu nắng trôi theo chiều tóc xõa
    Áo em vàng góc phố Sydney
    (Áo em vàng góc phố Sydney – thơ Hư Vô)

    1 - Vẻ Đẹp Văn Chương Qua Chân Lý Hữu Thể Của Nhà Thơ Hư Vô

    Những trang thơ tình lãng mạn của Hư Vô hiển lộ những nét chấm phá đầy tính khai phóng trong ngôn ngữ thơ và ẩn hiện tinh thần Duy Lý Luận văn chương của Ammunuel, Kant và lại có cùng bản thể Duy Thực Luận của Aristotle: Đó chính là những nỗi đam mê đầy cảm xúc tự quy khi tư tưởng của thi nhân trải dài theo không gian vô hạn và thời gian vô định của vũ trụ,và những cảm xúc tuyệt vời này chính là món quà vô giá mà thi nhân Hư Vô hiến dâng cho đời :

    Một đóa dã quỳ ai đánh rớt
    Nằm phơi lăn lóc lối tình nhân
    Tôi biết ngày mai em sẽ khóc
    Cho người khách lạ tưởng chưa thân…
    (Quán tình nhân – thơ Hư Vô)

    Và nếu men vào nền văn chương của nhân loại, mọi người đã rõ, đại thi hào Wordsworth, William ( 1770 – 1850 ) một thi nhân vĩ đại trong nền văn học nước Anh (một đế quốc mà mặt trời không bao giờ lặn = The empire on wich the sun never sets) thì nhận ra rằng thi hào đã để lại nhiều tác phẩm văn chương vô cùng giá trị: The prelude, The excursion , Description of the scenery of the lakes in North Angland, The white Doe of Rylstone, Letter to a friend of Burns, The river Dudlon , yarrow revisited, poems chiefly of early and late years ….
    Với tính khai phóng văn chương và biệt tài xử dụng ngôn ngữ thơ, thi hào Wordworth, William đã diễn tả niềm cảm xúc tuyệt vời trước những nét hùng vỹ, uy linh của núi rừng xanh thẳm, của những huyền diệu kỳ bí của thiên nhiên, và như những vần thơ :

    All things that love the sun are out of doors ,
    The sky rejoices in the morning ‘s birth ,
    The grass is bright with raindrops ; - on the moors
    Thehare is running races in her mirth …

    Thi hào Wordsworth, William đã khai sinh một trời thơ trữ tình lãng mạn của nền văn chương nhân loại, ông đã dẫn dắt thế nhân vào khung trời mộng mơ huyền diệu với biết bao nguồn cảm xúc với một văn phong đặc biệt mà cho đến mấy thế kỷ sau, một kẻ hậu sinh, thi sĩ Hư Vô cũng có cùng niềm cảm xúc, có cùng nguồn suối suy tư và biệt tài xử dụng ngôn ngữ thơ đầy nét tương đồng và mỗi người một vẻ:

    Bàn tay mấy ngón tình nhân
    Ngón nào đeo nhẫn đợi lần hứa hôn
    Nhẫn tôi liễu óng tơ tròn
    Kề em nhan sắc còn thơm da người..
    (Đêm mơ Thánh nữ - thơ Hư Vô)

    Thi hào Wordsworth William và kẻ hậu sinh Hư Vô đã xử dụng ngôn ngữ thơ vô cùng chính xác, chuẩn mực, trong sáng và thuần nhất về nội dung và hình thức văn tự. Về nôi dung là chất liệu căn bản, là bản thể bất biến của chính nó…và về hình thức, ngôn ngữ thơ phải mang đầy đủ tính cân đối, tính trong sáng và thẩm mỹ … như vẻ đẹp của một loài hoa, vẻ oai linh của núi rừng xanh thẳm, vẻ kiêu hùng của người lính chiến, vẻ đẹp đài cát quý phái của những mệnh phụ đầy hấp lực… và nó được xem là biểu tượng của chân lý nhưng nó vẫn không phải là chân lý vì chân lý không dựa vào ngôn ngữ mà có được, và chân lý tự nó tỏa ánh hào quang rực rỡ như hai vừng nhật nguyệt trong sáng trên bầu trời xanh thẳm: Nó trường tồn và bất biến

    Em về soi lại dung nhan cũ
    Thấy có còn tôi giữa muôn trùng
    Từ đêm rượu ướt đôi môi đỏ .
    Nhỏ xuống hư vô dấu nguyệt trần …
    (Lưng nguyệt – thơ Hư Vô)

    Vẻ đẹp trong chân lý hữu thể của ngôn ngữ thơ Hư Vô chính là một nhân sinh quan sinh thực, ẩn tàng trong cuộc sống trầm lặng của thế nhân vì thế con người muốn khám phá, thưởng ngoạn những vẻ đẹp kỳ bí của thiên nhiên, của đất trời bao la, của những thăng trầm của cuộc đời … thì ít nhất cũng phải sống trọn vẹn, đầy tình nghĩa .. cho hiện tại sinh thực và không nhìn về dĩ vãng với bao niềm luyến tiếc của một thời quá khứ mà bất mãn với hiện tại đầy nhiêu khê trắc trở của cuộc đời và vẽ vời một tương lai không thực cho một ngày mai mờ ảo .
    Vậy qua ngôn ngữ thơ Hư Vô, nếu muốn tìm về chân lý hữu thể, mọi người đều phải có một cái nhìn vô cùng khách quan, trung thực, chính xác…về cái Tiểu Ngã, bản thân tự quy, cái nhân sinh quan hiện thực vào cuộc sống của chính mình, cho mình về mọi khía cạnh của cuộc sống hiện tại và tương lai của chính mình:

    Bài thơ viết nửa đời còn dang dở
    Bởi anh quên tóc em chẻ bên nào
    Tìm nhau theo dấu mòn ngày tháng cũ
    Trăng quên tròn, biết tóc chẻ về đâu
    ….
    Về đâu trăng chơi vơi bờ bến
    Lối em qua bóng ngã bên nào
    Anh nghiêng xuống nỗi buồn mọc nhánh
    Bài thơ viết tiếp nửa đời sau…
    (Mái tóc ngang đời – Thơ Hư Vô)

    Nếu có người tìm kiếm hồn thơ Hư Vô mà giống như vô tình nhìn mặt nước hồ thu êm đềm, không một gợn sóng tung tăng thì có cảm nghĩ thi sĩ Hư Vô, một kiến trúc sư, một họa đồ sư hơn là một nhà phân tâm học hay một thi nhân mang nhiều ấn dấu Duy Thực Luận vì lời thơ đã nhóm màu triết học khi đi tìm chân lý hữu thể với một tâm thức sinh thực bằng một văn phong độc đáo như đã trình bày ở trên và cũng chính nó đã mang tính khoa học thực dụng để diễn tả một bản thể tự quy trên con đường tìm về Chân - Thiện - Mỹ: Hồn thi nhân cũng giống như lời thơ rồi sẽ lướt qua bao biển dâu khổ lụy, bao nỗi thăng trầm của thế giới vô thường, biến động của không gian, của thời gian … và hy vọng rằng nó sẽ mãi mãi trường tồn trong vũ trụ nhân luân, khá đẹp thay!

    Nửa đêm pha rượu vào nhan sắc
    Vườn khuya đã động khúc nguyệt cầm
    Mùa thu như thoáng chiêm bao tới
    Theo bước em qua lối thăng trầm..
    (Lưng nguyệt – thơ Hư Vô)

    2 - Vào cõi Hư Vô

    Thơ tình lãng mạn của thi sĩ Hư Vô thể hiện tình yêu mến thiên nhiên, những nét đẹp hùng vỹ của quê hương, những ân tình giữa những con người với nhau… , thi nhân đã cho người đọc những cảm giác bùi ngùi, nhớ nhung, thương tiếc… những giọt máu nhỏ xuống thành thơ …thi nhân đã mời thế nhân vào cõi Hư Vô… . Để: trả em nhan sắc buồn vô tội của những mùa thu lá bay ngập 36 phố phường …. quê hương yêu dấu

    Tôi vẽ em, mùa Thu Hà Nội
    Lá bàng trôi tím mặt Hồ Gươm
    Em bước qua bóng còn ở lại
    Để tôi mắc nợ những con đường .
    ….
    Tôi vẽ em, mùa Thu phố lạ
    Chờ nghe hương cốm ngọt môi quen .
    Để nước mắt chia vào hai ngả
    Chảy thành giọt máu xuống đời em ..
    (Tôi vẽ em mùa thu Hà Nội -- thơ Hư Vô)

    Nếu chúng ta đi tìm hiểu gía trị đích thực của cuộc sống mà vào cõi mù không của tâm thức và rồi phải từ biệt nó để ra đi và đi vào cõi hư vô ….và nếu luận gía trị đích thực này bằng ngôn ngữ “sắc -sắc, không – không“ theo kinh “Trí Huệ Đáo Bỉ Ngạn“ của Phật Giáo Đại Thừa thì chúng ta nhận biết rằng “sắc“ ám chỉ sự vật và “không“ám chỉ hữu thể, thì thế nhân nhận diện được những ẩn dụ tuyệt vời trong thơ tình lãng mạn của thi sĩ Hư vô trong cõi chân không vô thức :

    Tôi lần mò giữa hư vô
    Trượt chân vấp xuống cuối dòng nhân gian
    Vườn em xưa đã lỡ làng
    Trăng khuya quay mặt ngang ngang ngửa đời
    ….
    Đường trần mất lối dấu yêu
    Bóng tôi đổ dốc ngược chiều trăm năm
    ….
    Ngày em tóc xõa theo chồng
    Có nghe sám hối động phòng cô dâu?
    (Chân không – thơ Hư Vô)

    Và nếu một mai không còn một ai cùng ta chung bước đồng hành và cuộc hành trình đơn lẻ thì thế nhân cảm nhận nỗi cô đơn tận cùng của một kiếp người, thi sĩ Hư vô đã cho chúng ta hiểu những thấm thía của nỗi cô đơn của tâm hồn trước những mênh mông của không gian vô hạn và thời gian vô định;
    Suy luận theo phân tâm học thì tiềm thức (vô thức) chi phối, điều khiển ý thức, thì chúng ta hiểu rằng chân lý của hữu thể không phải là ý thức, mà nó cũng không phải là tiềm thức (vô thức). Hữu thể không tìm thấy trong chủ thể dù là ý thức hay vô thức cho nên thơ của thi sĩ Hư Vô như niềm vô thức trào dâng mời gọi một ý thức tuyệt vời để ta được cùng em mãi sánh bước bên nhau để ngàn năm mãi mãi yêu em ….tình nhân ơi! đã tới cuối đường cùng: một sinh lộ mới cho cuộc hành trình của một ngày mai tươi sáng, mà hiện tại là dĩ vãng của ngày mai :

    Ta thầm ước kim đồng hồ quay ngược
    Cho nụ hôn còn được kéo dài thêm
    Sân ga nhỏ, hắt hiu buồn man dại
    Từng chuyến tàu đang chạy tới vô biên
    ….
    Ta vẫn biết xoay lưng là vĩnh biệt
    Tình nhân ơi! đã tới cuối đường cùng
    ….
    Tay ta ngắn, vuốt chưa dài sợi tóc
    Vói cả đời không giáp một mùi hương
    ….
    Tàu chở bể dâu, biết đâu bờ bến ,
    Đường trăm năm còn có lối quay về?!
    (Tình nhân ơi, đã tới cuối đường cùng – thơ Hư Vô)

    Và nếu một mai thế nhân ghi nhận những huyền diệu văn chương trong thơ tình lãng mạn mà thi nhân đã cống hiến cho đời thì những vần thơ chất chứa bao nỗi niềm, bao yêu thương, bao tâm sự của những thi nhân…qua những bài thơ tình lãng mạn mãi mãi được mọi người tìm đọc, suy gẫm, ca tụng …và mọi người rồi sẽ tự quay lại suy tư, hoài niệm cho tình cảm chân thành, những ngang trái trong tình yêu của chính bản thân mình, thì hỡi cố nhân ơi! người đang ở phương trời nào và có thấu cho hồn ta sẽ trôi dạt về đâu, khi ta mãi nhớ thương hình bóng của cố nhân :

    Mưa dầm gió bấc cố nhân ơi!
    Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi
    Sông lạnh khi nàng ra giũ lụa
    Vớt giùm trong nước lấy hồn tôi
    (Gởi Cố Nhân – thơ Nguyễn Bính)

    Khi nhà thơ gởi vào thi ca niềm tâm sự u hoài của một cuộc tình say đắm là thi nhân đã trải rộng hồn mình theo đất trời bao la như vạn lời than vãn, như là những thổn thức thật tuyệt vời của con tim đang ấm nồng vì đang yêu và muốn được yêu: Đó chính là nét đặc trưng của lời thơ tiếng nhạc quyện vào nhau; Thơ và nhạc là hai chị em song sinh, cho nên khi thế nhân tỏ lòng yêu thương và mong muốn được bên kia đáp trả là lúc đang khổ lụy vì yêu hay say đắm khi được yêu thì tình thơ lai láng và ý nhạc ngân vang :

    Quấn vào nhau đêm đang bùng lửa
    Đắm cuồng si theo phím nguyệt cầm
    Đừng để mất nhau thêm lần nữa
    Cuộc đời đâu dễ có trăm năm.
    (Trăng mật – thơ Hư Vô)

    Những trở ngại về gia cảnh, tôn giáo, chiến tranh… là những ngang trái, những nghịch cảnh có thể là những nguyên nhân của sự không trọn vẹn cho một cuộc tình; để niềm thương nhớ mãi là nỗi nhớ nhung ray rức, Xuân Diệu, một nhà thơ trong trường phái thi ca lãng mạn cũng là nòi tình như thi sĩ Hư Vô, vương mang mùi tục lụy của thế nhân, và có thể đồng bệnh tương lân …

    Nằm đêm anh cứ thương em
    Rơi nghiêng nước mắt một bên gối nằm
    Thế này cho hết trăm năm
    Đến muôn năm vẫn âm thầm thương em
    (Nằm đêm Anh cứ thương Em – thơ Xuân Diệu)

    Và trong cõi hư vô, từ thủa khai thiên, nỗi buồn giao phối vẫn còn nguyên hình hài

    …Tìm nhau một cuộc trầm luân
    Biển xa mất dấu mưa trần trụi đau ….
    … Gọi tên em, gọi tình nhân
    Từ đêm mông mị hóa thân ta về
    Hình như đâu phải cơn mê
    Bởi da thịt đã cận kề chiêm bao …
    (Gọi tên em, tình nhân – thơ Hư Vô)

    3 - Thay lời kết

    Những tri thức dẫu mang nhiều những dấu ấn nhọc nhằn của cuộc sống, những oan khiên của tình yêu, những bi lụy và hoan ca của hạnh phúc….là những chất liệu của thơ tình lãng mạn và nó chỉ được thăng hoa khi tâm tình đã được phơi bày trên Dòng Sông Biến Dịch của tư tưởng của con người: Thi nhân đã hiến dâng cho đời những án thơ văn , những nhạc khúc diễm tình…trên con đường đi tìm chân lý hữu thể của tình yêu: Phía bên này của Dòng Sông Biền Dịch; thi nhân với lời thơ chất chứa không biết bao nhiêu say đắm, yêu thương, nhớ nhung ….mà không bút mực nào có thể diễn tả cái hồn vô ngôn của tình yêu …khi mất em rồi, xa em rồi :

    Mất em rồi, đời anh kể bỏ
    Nói năng gì cũng chỉ thất ngôn
    Cho em dăm bài thơ viết dở
    Mang theo chồng làm của hồi môn.
    (Phá sản – thơ Hư Vô)


    Bên kia bờ Bĩ Ngạn, thời gian vẫn cứ lững lờ trôi, không gian sẽ thay màu…định mệnh của cuộc đời vẫn cứ như những làn sóng xô đẩy nhau về chân trời vô định…và những tình cảm thương yêu trong thơ tình lãng mạn chỉ còn là những nối kết của tình yêu, nuối tiếc, hoài mong, nhung nhớ…để thế nhân mãi đi tìm “Chân Dung Tình Yêu“

    Thương em mái tóc xõa dài
    Chải trăm năm một hình hài đời sau
    Này em, bước tới bể dâu
    Chải chung hai nhánh cùng đau một lần
    (Chải tóc- thơ Hư Vô)

    Nếu ánh sáng mặt trời chạm vào vùng không gian có nhiều hơi nước thì nó sẽ khúc xạ nhiều lần và phát tán phổ quang thành “cầu vồng hay mống hoặc ráng“ với bảy màu tổng hợp: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím và thế nhân dựa vào đó mà tiên đoán thời tiết :

    Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa
    Ráng mở gà trời gió, ráng máu chó trời mưa …

    Thơ tình lãng mạn của Hư Vô khi vào vùng trời thương nhớ…thì nó cũng bị luồng địa nhiệt ( Năng lượng từ lòng đất: từ lõi hay trung tâm trái đất nhiệt độ từ 5.000 đến 7.000 độ C ) làm khúc xạ nhiều lần để vào “Duy Thực Luận“ và cho thế nhân bao lời thơ ngọt ngào để ngợi ca tình yêu dẫu mai kia dù có thế nào thì tình yêu mãi mãi ngự trị trong lòng nhân thế và mãi mãi không bao giờ thay đổi :
    Tình yêu rất dịu dàng, rất rực rỡ, rất ngọt ngào, rất hạnh phúc, rất vui tươi …nhưng nó vô cùng mong manh như sợi nắng vàng của những bình minh muôn chim ca hát, như ánh trăng huyền diệu để tiếng nhạc lời ca của 12 tình khúc do nhạc sĩ Phạm Quang Ngọc phổ từ thơ của Hư Vô mãi ngân vang trong lòng nhân thế :

    Buồn ngang vết cắt da đau
    Bóng em hóa hạt bụi đào ngây ngô
    Này em, ôm sát hư vô
    Chải vào hoang phế hương bồ kết xưa …
    (Chải tóc – thơ Hư Vô)


    Châu Đại Dương , Vùng Biển Mặn
    Vương Thiên Vũ
    (Lão Đưa Đò Trên Dòng Sông Biến Dịch)

    Tài Liệu Tham Khảo :
    Wordworth William, English Poet, Cambridge university 1947
    Kant ‘ s Philosophy of Law, Berlin university 1932
    Khảo luận Văn Chương Việt Nam – VTV
    Mặc Giao - Một Cái Nhìn Khác Về Văn Hóa Việt Nam
    Chân dung tình yêu: tiểu luận - VTV
    Việt Nam Văn Hóa sử cương - VTV
    The Burning Fountain, WhelWright, R : Astudy in the language of Symbolism, Indiana university Press, Blơmington
    Tuyển Tập 6 Nhà Thơ Úc Châu - Australia 2010
    Jacques Prévert, Paris university – 1954
    Greek Teacher And Philosopher Aristotle ( c384 – 322Bc ) NY.U.1945
     

Chia sẻ trang này

Share