Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 60 Ngư suy ngẫm âm tinh thấu đặng Chữ âm này để tặng tiểu nhi Chờ ngày thiên quý tới kỳ Tinh thông sáng tỏ đền nghì âm dương Sách ghi rõ thông thường bổ dưỡng Đọc kỹ thì thuận nhượng thơ ngây Tính âm luận ngữ chưa đầy Trẻ con người lớn bệnh gây chẳng đồng Vốn chẳng hại bên trong tình bảy Sáu dâm kia hết thảy luận tà Một mai ngoại cảm chẳng qua Cam, kinh, thổ, tả, tích hòa trường đông Thời hàn cảm thử phong tích nhiệt Đậu chẩn sang cấp thiết đơn ban Cản ngăn tạp bệnh lan tràn Có mười lăm chứng nguy nan rập rình Ta đơn cử tử sinh cụ thể Mạch chẩn chờ xin kể ra đây Trên mi mắt nổi vằn dây Đỏ lừ chạy suốt lấp đầy con ngươi Sưng mỏ ác phù nơi dưới ngực Kể cả khi đau nhức phập phồng Mũi khô đen sạm bụng gồng Gân xanh chằng chịt lộn tròng mắt lên Nhìn không chuyển thường xuyên đờ đẫn Móng sạm đen chen lấn chân tay Đột nhiên mất tiếng ai hay Lưỡi thè ngoài miệng nhớt nhày chảy ra Trẻ nghiến răng kêu la hay cắn Thở phì phò ỉa rặn phân chim Ngáp như cá, bỗng im lìm Giun thò miệng mũi bóng chìm hồn ma Chết tức tưởi mẹ cha bất lực Thày thuốc càng ráng sức cứu người Than ôi, mười đứa chết mười Bệnh này khó chữa cảnh đời thê lương Mười sáu chứng khác thường khinh trọng Bệnh chứng này trông ngóng nhiều phương Chẳng qua hư thực hai đường Chứng hư chứng thực từng chương rạch ròi Chẳng sai ngoa hẳn hoi công luận Mười bệnh thường lấn bấn mãi hoài Chín hư một thực gái trai Ví như đầu tháng dằng dai vẫn còn Khắp muôn nơi trăng non ló rạng Mở lòng gương thực trạng chưa ra Dạng tròn vành vạch sơn hà Bổ nhiều, tả ít, theo tà thực hư Thuốc nhi khoa nhẫn từ sư tổ Để ngày nay chứng tỏ mọi đằng Cao thâm y thuật thung thăng Cảm ơn liệt vị cung hằng sáng soi *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 4.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 61 Trẻ ấu thơ mặn mòi cá nước Đức hiếu sinh thao thức lòng trời Tổ sư bào chế cứu đời Bệnh nào thuốc ấy rạch ròi xưa nay Lợi thế tục nhiều thày chẳng ngại Lang băm càng tác hại tiểu sinh Kỳ Hoàng đạo học chứng minh Khen thay trị bệnh thấu thấu hình thực hư Đơn thuốc hay chân như cứu độ Danh tiếng thơm sư tổ ghi công Học trò rõ chước biến thông Huyền vi y thuật mênh mông tấm lòng Kiếp nhân sinh long đong trời đất Thuốc nhi đồng sài giật nóng ban Tử kim đĩnh, khỏi luận bàn Quánh đờm ho nặng gian nan vô cùng Bệnh sởi đậu phải dùng trợ vị Lở lưỡi môi từng tí nhẹ nhàng Kê đơn hóa độc đúng thang Bảo long tinh tán thung thăng đáng tiền Thiên châm hoàn, giảm liền nôn mửa Sốt hãm luôn cứu chữa tới nơi Nên dùng lô hội kịp thời Chứng cam nên nhớ rạch ròi trước sau Thuốc đã có phải mau ứng dụng Ngư với Tiều tìm đúng phương hay Hai chàng gặp bạn là may Nhập Môn ưu ái tháng ngày chỉ cho Đệ tử ruột tài cao uyên bác Kỳ Nhân Sư tọa lạc nơi nao? Ngư Tiều cảm khái dạt dào Mong thày trở laị nghẹn ngào lệ sa Khắp thiên hạ trăm nhà ngưỡng mộ Bạn của thày tri cố hai ông Họ tên là Hưởng Thanh Phong Ảnh Minh Nguyệt lão tinh thông y truyền Chẳng vướng bụi thiên nhiên tạo hóa Bậc chân nhân tỏa đóa hoa mai Thanh tâm khí tượng anh tài Mỗi người một vẻ gót hài thần tiên Thày ta vẫn thường xuyên thăm viếng Với bạn hiền nức tiếng gần xa Sẵn lòng Sào, Hứa ngâm nga Tề, Di mát mặt trăng ngà bể dâu Ba mươi sáu cung bầu hạc lỷ Hưởng Thanh Phong tri kỷ mấy ai Kỳ Nhân Sư một thiên tài Ảnh Minh Nguyệt cũng hương lài thoảng bay Vòng hối thực men say thoát khỏi Đời tối bưng le lói bình minh Ngẩn ngơ nhìn lại bóng mình Mây lồng đáy nước lung linh góc trời *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 5.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 62 Hai mươi tám sao chơi bốn biển Chán hư danh hiện diện dáng hình Gương thềm ngọc thỏ lung linh Vầng trăng sáng tỏ cung nghinh tiếng đàn Nhập Môn đang chứa chan thơ đọc Bỗng khách đâu mời mọc thỉnh cầu Chúa Liêu triệu đến sân chầu Tôn sư rầu rĩ mái đầu tuyết sương Chức thái sư Liêu vương ép buộc Bổng lộc nhiều bốc thuốc kê đơn Tôn sư căm giận oán hờn Dật dờ sớm tối chập chờn bóng mây Lòng bi phẫn bấy chầy thân phận Kỳ Nhân Sư tủi hận chẳng ra Dân tình thống khổ kêu la Cửa nhà tan nát sơn hà giá băng Thày cáo bệnh chẳng màng chức tước Sợ triều đình ngờ vực sinh nghi Nhập Môn chẳng rõ bệnh gì? Vội vàng chuẩn bị ra đi thăm người Ngư Tiều cũng tức thời biện lễ Huynh đệ càng tri kỷ tương thân Đan Kỳ theo lối đi gần Gió nồm nam thổi đằng vân ráng chiều Trời miền tây tiêu điều cảnh vật Làn hơi sương phảng phất hồ sen Non Kiều cây mọc cỏ chen Hang sâu vực thẳm bao phen tuyết dày Hươu vào động hạc bầy về núi Ba người vừa cắm cúi bước vào Thấy ngay Đạo Dẫn đón chào Mời vào y quán nghẹn ngào trước sau Thày chẳng chịu tự mù đôi mắt Chốn thiên thai đóng chặt cửa thiền Xông hai mắt đỏ triền miên Sứ Liêu cũng chịu lụy phiền não thân Cảnh nước mất nhà tan tang tóc Dân lầm than kêu khóc khổ đau Oán cừu thù hận theo nhau Trẻ già trai gái dãi dầu nắng mưa Nhập Môn nghe nhặt thưa lã chã Giọt thương người lọ đá nát lòng Trách thầm Minh Nguyệt Thanh Phong Không ngăn cản được, hai ông phụ thầy Không cố khuyên để vầy sao nỡ Cảnh mù lòa món nợ y khoa Tật tàn đôi mắt ướt nhòa Di, Tề ẩn dật muối rau qua ngày Nơi non Thú ai hay cam chịu Chẳng chịu quỳ bám víu nhà Chu Quản chi rừng núi âm u Mai danh ẩn tích thiên thu u hoài. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 5.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 63 Đơì chiến quốc tranh tài vương bá Danh chẳng sờn sắt đá kinh luân Như ông Qủy Cốc ẩn thân Học trò tuấn kiệt non gần đỉnh xa Núi Thương Sơn bao la hùng vĩ Bốn lão phu an trí tuổi già Công danh chi nữa đá bia Nào ai ràng buộc bên rìa tử sinh Thú cày câu mặc tình lộc Hán Nghiêm, Châu cùng lánh nạn công hầu Tiên sinh Ngũ Liễu dãi dầu Gặp cơn Tấn loạn mái đầu bạc phơ Đào tể tướng hững hờ phú quý Tướng sơn trung quy lụy phiền ai Chúa Lương khuất lễ vật nài Mới ra giúp sức trổ tài công huân Tùy vô đạo dấn thân dạy học Họ Vương kia khó nhọc Phần Hà Luyện rèn mưu sĩ tại nhà Trúc Lâm chén rượu nhân hà sầu ly Bọn Lan Đình nhung y lả lướt Thơ nhạc say sướt mướt với ai Bụi Hồ vẩn đục chi hoài Hành tàng hai chữ nguôi ngoai nỗi lòng Hãy gỡ bỏ hết vòng danh lợi Vật ngoài thân chới với bạc tiền Sống cùng non nước thần tiên Chính tâm an tọa sầu miên khước từ Thuở Yêu Ly riêng tư khác biệt Khổ nhục nào nhất thiết trừ hung Lo âu tiếng nhạc mịt mùng Như ông Sư Khoáng đường cùng thảm thay Tự xông khói mù ngay đôi mắt Trời nỡ lòng xiết chặt dây oan Sao không dốc sức khuyên can Để cho Sư Phụ tật tàn bấy nay? Đạo Dẫn than giãi bày mọi lẽ Nào ngờ đâu rành rẽ lời hay Thày rằng: Trời đất xưa nay Vần xoay khí vận đổi thay chính tà Vũ trụ luận nhân hà thế tục Xen hình hơi thúc giục trôi ra Hiếu sinh con tạo thiết tha Dưới là ngũ nhạc trên là tam quang Đường chính đạo thênh thang ta bước Còn cách nào tỉnh thức lê dân Yêu ma ác quỷ vô thần Xâm lăng lấn chiếm giết dần chúng sinh Đời ngũ đế thái bình thịnh trị Là bởi vì vận khí thịnh lên Nhân hòa hợp với hoàng thiên Ba giềng năm dạy tự nhiên an lành *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 6.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 64 Khi vận ách trời xanh u ám Đầy gian truân ảm đảm châu đông Ghe keo lạc Sở mênh mông Bảy hùng năm bá tranh công lấp dòng Hết nhân nghĩa đỏ lòng xanh vỏ Bầy cáo chồn mọi rợ vô luân Thánh hiền nấp bóng dấu thân Cọp trong rừng vắng khí phân rối nùi Chịu cơ cầu phanh phui đâu dám Sự đời càng thê thảm thương đau Tôi loàn con giặc tranh nhau Hơi tà ngăn bủa bạc màu sơn khê Hơi chính đâu dãi dề năm tháng Chẳng còn nhiều cay đắng ê chề Than ôi! Cái giản nước tề Ba lần quan sử nối đề “ thí vua“ Vua nước Tấn đối đầu trước hết Làm đồng hồ ngòi viết biên ra Chính cây chùy Bác Lãng Sa Trương Lương vì chúa đánh xa Tần Hoàng Bay phần phật Tô lang cờ tiết Nô đọa đày thảm thiết gian nan Mất đầu lão tướng Nghiêm nhan Trương Phi uất khí ngút ngàn bể khơi Chẳng chịu nhục ngậm cười chín suối Chính khí dâng dong duổi đế y Máu trào Kê Thiệu cứu nguy Cảo Khanh miệng lưỡi lâm ly chúa mình Thường Sơn kia cực hình chửi giặc Miệng Trương Tuần bạo tặc thất kinh Tuy Dương khảng khái bất bình Mắng bầy giặc dữ Quản Ninh kém gì Thời Tam quốc tru di cửu tộc Mất ô sa thảm khốc điêu linh Chính làm tờ biểu xuất chinh Ra quân bắc phạt Khổng Minh phất cờ Chèo Tổ Địch sang bờ dẹp loạn Diệt Yết Đê táng tận lăng loàn Qua sông cái hốt họ Đoàn Chặn đầu quan hoạn mưu gian soán Đường Hơi chính khí vấn vương tỏa sáng Ngọn lửa hồng bi tráng dấu ghi Một trường oanh liệt phù trì Nên câu ”thiên trụ địa duy” vững vàng Dòng hơi chính lang thang tản mạn Lạc xa đàng tao loạn sói mòn Dửng dưng thời cuộc nước non Chia năm sẻ bảy héo hon dường nào Vòng phú quý lao xao nhầy nhụa Cảnh triều đình nhớp nhúa gian thần Sớm tôi, tối chúa vô luân Mua quan bán tước bất nhân lộng quyền Quỳ mọp lạy hoàng thiên thánh thượng Mưa móc xin ban thưởng tước vương Chúa Liêu kiêu ngạo khinh thường Lê dân bách tính thê lương hãi hùng *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 8.5.2020 Lu Hà