Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 55 Gốc tạng phủ thần linh soi sáng Thuận ngũ hành năm tháng tạo ra Vần xoay trong cõi người ta Vợ chồng con cái mẹ cha an lành Ngôi chồng vợ tung hoành thuận nghịch Mẹ cùng con cảm kích dựng xây Bộ âm tạo mạch dương vầy Chồng thừa ngôi vợ bấy chầy vào trong Lại như vợ mở cung cửa lớn Lấn ngôi chồng bộn rộn ngóng trông Bộ dương để mạch âm thông Thong dong tới bậc minh công là hoành Thừa ngôi mẹ nghịch danh con ngỏ Mẹ thừa con thuận ở tình nhau Ung dung bắt mạch xoát cầu Máy âm dương nhóm biết đầu gái trai Ba bộ dương mạch ai đó thịnh Là con trai dự tính chẳng sai Ba âm mạch thịnh gái thai Trai đôi tả đới tung hoài mãi thôi Hữu đới hoành gái đôi hóa dịch Thành trai ba mạch nghịch tả dương Gái ba mạch thuận là thường Hữu âm hình tướng vấn vương truyền lòng Huyền, khẩn, lao, hoạt, cường yên vị Chết rõ ràng trầm tế vân vi Cao tay mạch tượng lỗi gì Biết ngay thai yểu còn nghi ngại gì? Bụng bà chửa thai nhi nằm đó Mấy chứng thai xưa có khảo biên Sách ghi tử giản tử huyền Than ôi! Tử thũng, tử phiền, tử lâm Bao chứng tử hoài nhâm tử khí Hơi nghén gây tỳ vị đau trong Tiều rằng chứng giản là phong Mong manh mạng sống đau lòng nhân gian Đàm nhiều chứng nguy nan tà ác Khí hư ra xơ xác âm hao Hai tay co quắp đau bào Lậu thai bụng lớn máu trào túa ra Thai lậu động khác xa là chứng Thai bình thường mẹ nựng con ta Tình thương mẫu tử thiết tha Động là khí bách lậu là nhiệt thương Lời thai luận biến thường nhiệt thấp Nội thương bàn hô hấp thấy ai Khử tà mới giữ được thai Phong đàm thuốc ấy đúng loài trị an Chứng huyễn hoặc mê man bất tỉnh Phải lo toan định tính rõ ràng Làm sao cho hết mơ màng Nghén chưa đủ số bụng nàng đớn đau *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 30.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 56 Bảy tám tháng sau thì chuyển bụng Nào biết đâu như chứng giả đò Thày lang bốc thuốc thăm dò Khù khờ phép tắc lò mò linh tinh Nửa bốc thuốc thôi sinh ngần ngại Tháng còn non sợ hại cả hai Nửa thời hốt thuốc an thai Còn thừa ngày tháng hoa khai lỗi kỳ Tiếng sao khỏi lang y họa rước Thuốc nào hay xin được lưu truyền Nhập Môn quan sát trước tiên Luận y thai nghén sách biên tỏ tường Mười tháng chửa thông thường thai lệ Cho đến ngày cửa sẽ mở ra Tử cung co thắt rên la Lưng đau nhức nhối mắt hoa tối trời Như dưa chín cuống rời khỏi gốc Nằm đơ ra hồng hộc cạn dòng Trái thơm quả ngọt long đong Gọi là chính sản cầu mong an lành Bảy tám tháng mong manh yếu ớt Chứng lộng thai xanh nhợt đuối hơi Gọi là thí nguyệt nhặt lơi Bụng đau xâm xỉa tả tơi mặt mày Kinh nghiệm cho xưa nay khuyên bảo Con nằm yên mẹ dạo bước chơi Vẫn chưa đủ tháng chẳng rời Mẹ yên tâm nhé nụ cười hân hoan Trời sinh voi chứa chan ngọn cỏ Luật tự nhiên xin chớ lo phiền Hỏi tra ngày tháng trước tiên Ly kinh một mạch coi liền là hay Chứng lộng thai lắt lay chính sản Thật hiểm nguy đừng dạn dĩ ngay Thôi sinh phạm lỗi tắt ngày Khai hoa chẳng đợi quắt quay kiếp người Hại thế nhân hại đời thày nữa Kê đơn liều chẳng chữa người ta Hãy coi cái kén trứng gà Đủ ngày mỏ khoét vỏ ra con này Thuốc an thai dễ hay gây nạn Đẻ đến ngày thày cản con ra Nỗi niềm mong đợi thiết tha Lang băm quậy phá cảnh nhà nát tan Lộng thai chính sản, bàn tay nắm Bậc lương y đâu dám kê liều Cứu người cũng có lắm chiêu Ly kinh mạch quyết bao điều tử sinh Một hơi sáu lần ly kinh đến Hoạt tế trầm mạch chẹn cũng đành Nửa đêm đau dữ sắp sanh Ngày mai sẽ thấy sáng danh Chúa trời. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 1.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 57 Tiều mới hỏi chửa thời rồi đẻ Bởi cớ sao còn kẻ oán than Nhân sinh sao lắm gian nan Tự nhiên xúc vật bình an hơn người Môn cho rằng cảnh đời lỗi đạo Chẳng kiêng dè bợm trạo sinh nhai Đàn bà vô ý mang thai Trách trời oán đất đơn sai tại mình Thuốc phụ khoa thánh minh căn dặn Phải tuân theo đều đặn thường xuyên Bảy điều sư tổ từng khuyên Giữ thân né tránh sầu miên nhọc nhằn Chớ xông pha săn văn công việc Khí huyết tăng bày biện linh tinh Hai là tới trước kỳ sinh Dăm ba ngày sẽ thình lình trở thai Điều thứ ba ép nài ăn uống Khiến thai nhi to tướng béo phì Thứ tư dâm dục tù tì Chăn loan gối phụng tỉ ti ái tình Thành lao lực đốt tinh phá khí Bào khô khan dị nghị xa gần Mặc cho âm hộ rộng dần Lăng xăng thăm hỏi gây phần loạn sinh Thứ năm ngại sợ mình thai động Chữ ưu nghi lại lộng vào thân Khiến ai vấn bốc tần ngần Sản hoàng hai chữ bần thần não nhân Nghe mụ đỡ rặn khan vội vã Khiến con ra ngược cả bụng cương Sáu là nguy hại nội thương Phều phào ốm yếu mình thường thiếu hơi Nguồn khô cạn rặn hơi quá sớm Con khó ra lại chớm máu tươi Bảy phần phận sự chơi vơi Sách y ghi chép tới nơi tận tình Cõi nhân gian tử sinh hợp lẽ Theo luật trời nặng nhẹ phân minh Truyền thừa xem pháp tướng tinh Mặt chừng là mẹ lưỡi hình dáng con Mặt tươi tắn vuông tròn lưỡi thắm Lưỡi thâm khô ảm đạm mặt xanh Giá băng mẹ chết thôi đành Lưỡi xanh mặt đỏ con thành hồn ma Mặt xanh lưỡi đỏ là mẹ sống Còn lưỡi xanh mặt đỏ giống nòi tiêu Hài nhi thất thểu phiêu diêu Hồn mây thê thảm bóng chiều tịch dương Phép y lý mạch tường sáng tỏ Phương pháp nào chỉ rõ cho hay Tiều rằng mạng sống trong tay Ngàn cân sợi tóc gió bay lá vàng *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 2.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 58 Đường Nhập Môn vẻ vang sản hậu Một khoa riêng trần cấu bấy nay Tổ sư có lắm vị hay Chứng nào thuốc ấy uống ngay khỏi liền Nghe tâm pháp thày truyền hậu thế Nguyên ba điều ta kể ra đây Một là máu trống hỏa đầy Cuồng kinh nóng táo thân gầy xác xơ Chứng bại huyết bơ phờ mệt nhọc Vọng hành tăng kêu khóc đầu đau Chân tay bụng cứng bám nhau Ăn nhiều uống lắm trước sau tới cùng Hay nôn mửa ba xung ba cấp Chiếu chăn thành hầm hập rên la Xung vì bại huyết mà ra Xung tâm, xung phế thật là thảm thương Cấp mới đẻ thê lương phiền não Thổ tả càng nhệu nhạo mùi hôi Tổ xưa dùng thuốc chữa rồi Có ba việc cấm than ôi tạc lòng Thang phật thủ xin mong đừng bốc Vị xuyên khung cực độc chẳng lành Xuyên khung tán khí đã đành Lại hay phát hãn rắp ranh hư nhèm Thang tứ vật hay kèm trong thuốc Địa hoàng quen thược dược dụng sinh Chẳng hiềm sống lạnh máu kinh Ngặt thời phải dụng chín mình chế đi Khí huyết suy sau khi chửa đẻ Thược dược chua lạnh sẻ tửu sao Cấm dùng thang tiểu sài hồ Hoàng cầm tính mát ngăn hồ huyết đi Bệnh dày vò tật di dơ dáy Lời huấn kinh thày dạy chớ quên Mấy mùi dược tính chẳng hiền Chớ cho xâm nhập vào miền tam tiêu Biểu chứng phạm bao điều giả tượng Có rất nhiều hình tướng y thư Xưa nay có mấy tôn sư Trị khoa hậu sản như từ Đan Khê Dòng Chu tử hành nghề tỏ rõ Đẻ về sau khá bổ máu hơi Gốc làm mạch chủ thảnh thơi Quản chi tạp chứng về nơi ngọn ngành Thật cao minh ngọn xanh bền gốc Bá thuật cùng thuốc bốc thiên uyên Ngợi khen mạch quyết lưu truyền Bao người sản hậu nhân duyên mất còn Ngư lại hỏi trẻ con lẫm chẫm Một hai ba tuổi nhẩm chưa đầy Đau thời coi hổ khẩu tay Cho hay thực chỉ vằn bày chứng cai. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 2.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 59 Phép coi gái hữu trai bên tả Trỏ lóng ba ngón ngả ba quan Phong quan lóng gốc thế gian Lóng nhì ải khí ba bàn mệnh quan Vằn xanh ngang gió can quá mức Bỗng đỏ vằn nóng nực ran mình Vằn xanh đỏ loạn chứng kinh Vằn hồng bợt nhạt ấm mình bụng đau Vằn lóng gốc trị mau khỏi bệnh Phải nhanh tay chớ chểnh mảng lâu Vằn qua ngón giữa chuyển mầu Hơi tà chạy đến càng rẫu rĩ than Bắn lên trảo, giáp nan giải lắm Chứng nguy này thê thảm hài nhi Vằn đen như mực loạn bì Lấn vào ba ải đông y hoảng rồi Biết chừng ấy mà thôi chẳng rõ Còn cách nào đâu đó bệnh tình Môn rằng: Con trẻ mới sinh Máu hơi còn yếu mạch hình khó coi Giáp năm cũng có người mắc chứng Thật đớn đau đi đứng hay ngồi Xem ra bệnh đã nặng rồi Gân xương mạch lạc lần hồi mở ra Kỳ Nhân Sư nhi khoa giỏi trị Khí sắc coi vị trí mạch kinh Tướng xem trên huyệt Tình minh Thấy trong tạng phủ bệnh tình chữa ngay Xem ngón tay bấy nay biếng nhác Thày rờ xem mạch Sác có không Sác cùng chẳng sác coi ròng Sác cao bốc nhiệt sác không khí hàn Một ngón tay thong dong ba mạch Hơi thở đều tách bạch điều hòa Hai lần là thoát chẳng ngoa Ba lần là thốt nhạt nhòa mồ hôi Bốn lần tổn than ôi năm đó Gọi là hư chăng chớ vấn vương Sáu lần không bệnh bình thường Bảy lần bệnh nhẹ tám đương cận cài Từ chín đến mười hai sẽ chết Phép coi này nhất thiết tinh thông Ngư bàn sách ấy thuần dương Về phần trẻ nhỏ bệnh thường nhiệt dâm Tiểu nhi ca tình thâm nòi giống Bệnh trẻ con kinh động thống phong Tich đờm cổ họng không thông Cam sài giun sán mênh mông vô cùng Sao kể hết chập chùng biển cả Kiếp con người vàng đá phôi phai Khen cho con tạo cắm cài Âm dương kín chữ trần ai muôn hình. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 3.5.2020 Lu Hà