Thơ Tình Chùm Số 1.224

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 3 24, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Buồn Thay


    Buồn thay đại dịch toàn cầu

    Mùa đông heo hút bạc màu khói sương

    Bởi ai gieo rắc tang thương

    Bắc Kinh Vũ Hán thê lương thế này


    Ngậm ngùi chua chát đắng cay

    Lợn kêu eng éc chuột đầy mả hoang

    Xác người không liệm bẽ bàng

    Lò thiêu chật chội phũ phàng ngày đêm


    Hỏa Thần Sơn, dọa xây thêm

    Bầu trời ảm đạm bên thềm quạ đen

    Tập đoàn sát máu bon chen

    Gạt lường thế giới nhỏ nhen độc tài


    Mưu đồ thống trị nhân loài

    Tham lam ích kỷ bi ai ngập tràn

    Thiên tai nhân họa ngút ngàn

    Cỏ cây đồng ruộng bầy đàn xâm lăng


    Biển Đông quen thói hung hăng

    Công trình văn hóa san bằng sạch trơn

    Trẻ gìa lăn lóc tủi hờn

    Xế chiều đom đóm chập chờn xác xơ


    Hồn ma bóng quế bơ vơ

    Cách ly trần thế dật dờ đi đâu?

    Dập vùi bãi bể nương dâu

    Hung hăng châu chấu giang đầu cạn khô


    Chặn nguồn nước chiếm sông hồ

    Thức ăn độc hại tham ô bạc tiền

    Lo toan xây dưng chính quyền

    Khinh thường mạng sống nhãn tiền trả vay


    Nợ nần nghiệp quả xưa nay

    Thương thiên hại lý bủa vây lưới trời

    Não nùng giọt lệ tuôn rơi

    Vi trùng cấy ghép khóc cười ác ma!


    24.3.2020 Lu Hà




    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 12


    Mùa thu đến khí dương chẳng trọn

    Mưa dầm dề đội nón trên đường

    Hơi sương lạnh lẽo chán chường

    Tiết đông heo hút thê lương bức rèm


    Làn gió thổi lem nhem tan giá

    Keo dán hình đất đá sượng câm

    Ráo khô bực bội nóng hầm

    Bùn lầy nhão nhoẹt cát lầm nứt đê


    Câu khí hậu bất tề nên nhớ

    Bờ sông quê sụt lở theo nhau

    Cỏ cây tàn tạ khổ đau

    Mong sao tương đắc trước sau hóa lành


    Chỉ e ngại tranh giành khách khí

    Không thuận hòa vị trí soán ngôi

    Ngũ hành điên đảo than ôi!

    Ghế cha phế truất con ngồi lên trên


    Sinh bệnh tật cố nhiên nóng giận

    Tiều cho rằng khí vận thế này

    Mấy năm thuận nghịch thưa thày

    Dẫn đưa y học xưa nay tận tường


    Khắc tư thiên lẽ thường năm vận

    Bởi tư thiên sinh vận thuận tâm

    Năm nào biến chứng nghịch tầm

    Vận đồng với khí là năm thiên phù


    Sáu mươi giáp một chu kỳ đến

    Mười hai năm xuất hiện một lần

    Kể ra Mậu tý, Mậu dần

    Mậu thân, Mậu ngọ, Bính Thần, Tuất chi


    Năm Kỷ sửu, Kỷ vi tính tới

    Mão Dậu hai Ất Hợi Tý Đinh

    Cho hay vận khí đồng tình

    Mười hai năm ấy chúng sinh thiên phù


    Vận khí đến vân du mấy lối

    Thấp thỏm coi tuế hội tám chi

    Đếm đầu Kỷ sửu, Kỷ vì

    Giáp thìn, Giáp tuất, thổ vi thổ làm


    Đinh mão mộc nhăm nhăm Ất dậu

    Kim tiếp theo Mậu ngọ lửa dầu

    Coi chừng Bính tý mưa ngâu

    Thiên phù tuế hội hợp nhau nhất thì


    Thái ất kia bốn chi hội đủ

    Từ Kỷ sửu chiêu dụ Kỷ vi

    Theo nhau Ất dậu hơi đi

    Một bờ Mậu ngọ thầm thì gió may


    Coi năm tháng giờ ngày tính toán

    Cờ tư thiên mà đoán cơ duyên

    Gỉa như Mậu ngọ thường niên

    Vận đồng với khí từng thiên rõ rành


    Gặp năm ấy khó lành bệnh tật

    Sách nội Kinh coi thật bao la

    Máy trời trắc trở sơn hà

    Mười hai năm lại sinh ra bất hòa.


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    20.3.2020 Lu Hà





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 13


    Sự trái ngược nhạt nhòa hơi khí

    Mười hai năm định vị thiên hình

    Nguy nan tạo vật điêu linh

    Đất trời giành giật chúng sinh thảm sầu


    Khi tiểu nghịch biết đâu sinh vận

    Thuận hóa thành phấn chấn vui thay

    Nhiệm màu nào có ai hay

    Can chi nhộn nhịp cho ngay đức phù


    Có hai ngôi vân du tuế hội

    Vận suy ty rẽ lối xét bàn

    Nội kinh hai chữ khuyên can

    Hại cang thừa chế cản ngăn rõ ràng


    Hữu dư bất túc càng cố gắng

    Xuất nhập cho thăng giáng hẳn hoi

    Phân minh mọi sự rạch ròi

    Mỗi năm đồ vẽ cần coi tận tường


    Soi xét kỹ bất thường tà chính

    Bậc lương y suy tính trước sau

    Hai luồng khí vẫn đua nhau

    Thành tâm hóa dục khổ đau tiêu dần


    Bầy dân đen xa gần trông ngóng

    Y đức cao trọng vọng tiếng thày

    Kê đơn bắt mạch chuyên tay

    Bệnh tình thuyên giảm thuốc hay mau lành


    Lương y giỏi xứng danh từ mẫu

    Từ cổ kim khắc dấu ghi tên

    Hoa Đà Biển Thước hoàng thiên

    Lãn ông Hải Thượng thần tiên giúp đời


    Chỉ e rằng các ngươi lười biếng

    Đạo chẳng chuyên để tiếng cho ta

    Thị phi miệng lưỡi phun ra

    Học hành trí trá gần xa tin đồn


    Ngư Tiều xin Sư tôn chỉ bảo

    Kinh nghĩa trong y đạo kín xa

    Nghe câu cang hại chưa ra

    Dẫn trong kinh sách bao la vô cùng


    Rừng chữ nghĩa mịt mùng vô tận

    Muốn tinh thông phải dấn thân đi

    Đan Kỳ cửa đạo tinh vi

    Uyên thâm y thuật nhất nhì chẳng ngoa


    Rừng bản thảo cỏ hoa kỳ lạ

    Suối nước trong sỏi đá bất thường

    Đủ mười hai bộ đan phương

    Biết bao mùi vị mở đường từ bi


    Thảo mộc cũng tương tri lân lý

    Rất nhiều loài chọn kỹ tìm lâu

    Một bộ kim thạch ở đầu

    Trăm ba mươi tám đúng câu đá vàng


    Bộ thảo thượng rõ ràng quý hiếm

    Chín mươi lăm tìm kiếm hột hoa

    Thảo trung một bộ nối ra

    Chín mươi bảy giống gốc chà lá cây.


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    21.3.2020 Lu Hà





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 14


    Nhân thuốc ấy bấy chầy một bộ

    Có hai mươi vị đủ chi dùng

    Ở trong thú vật bổ sung

    Chín mươi mốt giống mật cùng da xương


    Phải kể đến gan lòng tim phổi

    Nào ba mươi bốn cội cánh lông

    Bộ trùng ngư thuốc bềnh bồng

    Chín mươi chín loại non sông tuyệt vời


    Thuốc thường kiếm là nơi cầm điểu

    Mễ cốc kia công hiệu cứu đời

    Ba mươi tám giống là nơi

    Gieo trồng quả phẩm muôn người trọng coi


    Bốn mươi giống thảnh thơi bách thảo

    Sáu mươi hai hương hảo khỏi lo

    Cộng mười hai bộ trời cho

    Một ngàn bốn vị trong lò hóa công


    Xưa có họ Thần Nông cao nhất

    Đã thay trời trị vật yêu dân

    Trải qua độc vị thế gian

    Một ngày hơn bảy mươi lần trúng thương


    Biết bao vật âm dương nếm thử

    Chẳng đắn đo do dự cứu người

    Dò tìm cây cỏ khắp nơi

    Soạn ra sáu tính khác hơi năm mùi


    Đã thành hình nằm vùi dưới đất

    Đủ đắng cay ngọt lạt mặn chua

    Sát sao cách thức theo mùa

    Xăm soi ngũ vị kết tua luận bàn


    Nhóm vị cay dễ tan trong nước

    Chua hay thâu mặn được nhuễn liền

    Đắng thường vội vã nóng lên

    Ngọt càng chậm lại nhạt nên tận tường


    Cay ngọt lạt thuộc dương phải biết

    Mặn đắng chua nhất thiết là âm

    Có khi dương ở trong âm

    Âm trong dương đó dễ nhầm lắm thay


    Máy mầu nhiệm cầm tay dày mỏng

    Hơi đục trong thất vọng chẳng đồng

    Giữ cho sáu tính tương thông

    Gọi là thăng giáng ôn lương đến cùng


    Đừng lạc lối mê cung tả thực

    Bổ hay hư tỉnh thức trên giường

    Cho hay tính thuốc nhiều đường

    Xưa nay năm vị vẫn thường chia ra


    Ngăn tà dâm xâu xa sáu cửa

    Sáu đạo binh ngang ngửa ầm ầm

    Có mùi cay mát giữ cầm

    Mỏi mòn hơi gió âm thầm nửa phong


    Mùi mặn lạnh đề phòng cửa nhiệt

    Lửa hừng lên phải biết hậu môn

    Đất nơi cửa thấp ướt dồn

    Ngửi mùi cay nóng bồn chồn giác quan.


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    22.3.2020 Lu Hà




    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 15


    Nếu cảm thấy khô khan cửa táo

    Đường hàn môn lạo xạo băng sương

    Ưá trào vị đắng táo hương

    Thoảng bay độc khí thất thường ngoại khoa


    Mùi thuốc ghẻ mấy toa chăng chớ

    Năm vị này úy ố trái nhau

    Có mười tám vị trước sau

    Còn mười chín vị sắc màu nhuộm pha


    Sách sử ghi lời ca ố úy

    Mười tám bài hệ lụy phản nhau

    Nào là bán hạ qua lâu

    Ai hay bối mẫu chân cầu tử sinh


    Này bạch cập rập rình bạch liễm

    Cả hai đều xâm chiếm ô đầu

    Nguyên hoa hải tảo từ đâu

    Ngán sao đại kích từng xâu đọa đày


    Vị cam thảo càng day dứt thuốc

    Các lọai sâm bạch thược trái ngang

    Lê lô quả thật phũ phàng

    Lương tâm thày thuốc bẽ bàng ngàn thu


    Hồn ma khóc âm u gió thổi

    Lư hoàng kia nóng hổi lửa phun

    Phác tiêu cửa ải mây đùn

    Thủy ngân chớ để hạp hùn tỳ sương


    Mật đà tăng bất lương lang độc

    Ba đậu kia thảm khốc xiết bao

    Khiên ngưu chăng hợp kết giao

    Đinh hương chớ để lẫn vào uất kim


    Kinh tam lang nổi chìm khó hợp

    Với nha tiêu từng hớp thuốc thang

    Nực cười tê giác lăng xăng

    Xuyên ô trộn lẫn nhì nhằng thảo ô


    Ngũ linh chi từng tô đáng sợ

    Với nhân sâm họa đó ích gì

    Điều hòa quan quế nhâm nhi

    Rất hay khí lạnh thầm thì yến anh


    Gặp thạch chi hóa thành công cốc

    Phải dày công bốc thuốc chuyên tay

    Học hành chăm chỉ tháng ngày

    Tinh thông thuận nghịch càng hay mọi đàng


    Ngư cho rằng từng thang thuốc quý

    Phải đúng liều chẳng lụy đến thày

    Vài toa bệnh đã dừng ngay

    Dẫn cười đạo hạnh xưa nay tỏ tường


    Câu đối chứng lập phương cần nhớ

    Quân thần kia tá sứ đo lường

    Vua tôi hòa hợp một đường

    Đừng gây tạo phản bất lương hại người


    Nay ta mở các ngươi mấy cửa

    Sẵn bảy phương đại tiểu ngẫu cơ

    Phức cùng hoãn cấp sờ sờ

    Khá trông mười tễ càng dư tuần hoàn


    Tễ là bổ chu toàn thành thạo

    Hoạt trọng khinh sáp táo thấp thôi

    Bảy phương mười tễ biết rồi

    Tán thang minh bạch trau dồi kỷ cương.


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    23.3.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share