Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 7 Đời lắm kẻ ươn hèn bạc nhược Liên kết bầy ô trược tiểu nhân Thức ăn độc hại bất cần Xanh xao trắng dã dày gân buộc lèo Hồn khí uất hắt heo gió thổi Ứa vị toan hấp hối kêu rên Mạch sờ lay lắt chữ huyền Âm kinh túc ấy dẫn truyền toàn thân Cùng phủ đảm nối dần tâm tạng Thuộc hỏa kinh theo dạng mạch hồng Mùa hè sắc đỏ lưỡi phồng Thất thần tụ máu chất chồng mùi hôi Đường kinh thủ xa xôi âm thiếu Ngôi tiểu trường ngoại phủ lại càng Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng Thuận theo tứ quý tiềm tàng là vui Nếu nước dãi ngọt mùi mạch hoãn Tiếng ca nghe chắc chắn nuôi hình Thái âm kinh túc da mình Hợp cùng phủ vị thần linh trụ trì Tâm thư thái tức thì tạng phế Ngôi trung châu mạch thể kim ti Mùa thu sắc trắng vân vi Vị cay ròng phách biểu bì lông trơn Khi hắt hơi nước nhờn trong mũi Thái âm kinh bờ bụi tỏ tường Hợp cùng ngoại phủ đại trường Tạng kia thận nọ vẫn thường mùa đông Đều thuộc thủy phải thông thuộc trước Sắc vị đen chỉ được nuôi xương Rên la nước miếng thất thường Hai tai chừng đó giữ phương mạch trầm Phần kinh túc thiếu âm phải rõ Hợp bàng quang phủ đó hóa nguyên Tiều phu năm tạng đã biên Còn trong sáu phủ nói liền cho ra Đạo Dẫn cười người ta túi mật Xuân mộc kinh đúng thật thiếu dương Tượng theo nắm bắt phải tường Phủ can muôn mối liệu đường trước sau Chiều ruột nhỏ mau mau hạ hỏa Tiểu trường hay thoái hóa kinh cầm Bên ngoài giữ phủ an tâm Nước trôi rửa sạch âm thầm tạo sinh Phần kinh túc dương minh khẩn thiết Ăn uống càng phải biết can ngăn Kiêng khem chồng chất khó khăn Ruột rà bao tử trở trăn đêm ngày Đại trường nhức nhối ngay uế khí Phải lo xa tỳ vị hơi cầm Ních đầy cặn bã xuống hầm Phân đùn tanh tưởi thân tâm dật dờ. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 16.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 8 Ép bọng đái thấy dơ nước tiểu Kinh thái dương tiết niệu hoả hơi Biết ngay phủ ấy tả tơi Từ trên xuống giữa dưới thời tam tiêu Do ăn uống nạp nhiều tạp chất Để toàn thân bần bật rã rời Hơi thừa bủa khắp ba nơi Đứng ngồi không vững máu tươi ứa trào Phải kê đúng thuốc sao đặc hiệu Ngấm vào trong phải hiểu từng toa Mười hai kinh lạc điều hòa Giúp cho tạng phủ giao thoa thế nào? Ngư Tiều hỏi tâm bào kinh thủ Còn liệu chừng tam phủ âm dương Làm sao y thuật hiền lương Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư? Đạo Dẫn bảo Nhân Sư chứng thực Bến ngũ hành ý thức nhân sinh Mộc kim thủy hỏa thổ trình Hiểu cho cặn kẽ muôn hình vần xoay Mộc sinh hỏa ai hay thành thổ Thổ sinh kim hội ngộ thủy ra Thủy về mộc lại thiết tha Đất trời sinh sản bao la vô cùng Mộc khắc thổ mịt mùng thổ thủy Thủy chẳng ưa hỏa lụy chân kim Kim xa mộc lại đi tìm Mộc đâu giá lạnh im lìm chúng sinh Tiếng quạ kêu hôi rình xác chết Việc dữ lành thống thiết muôn loài Tử sinh trong cõi trần ai Cỏ cây muông thú u hoài ngàn năm Máy tạo hóa trăng rằm sáng tỏ Khéo khen thay tay thợ ngũ hành Phải coi sách ấy cho rành Dịch kinh hà lạc thuần thành mới thôi Aỉ Thiên Can mấy hồi Ngũ Vận Phải tinh tường chủ vận là chi? Thiên can mười chữ có ghi Anh em thứ lớp nhất nhì chẳng sai Sinh ra được một trai một gái Năm phương càng chẳng ngại âm dương Giáp cùng ất mộc đông phương Bính thì đinh hỏa tỏ tường nam phương Mậu kỷ thổ trung ương thấu tỏ Canh tân kim vẫn ở tây phương Thuận theo tạo vật vô thường Cùng nhâm quý thủy bắc phương ý trời. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 17.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 9 Năm ngôi chủ chẳng dời thời vận Suy ngẫm ra thân phận con người Trần gian dở khóc dở cười Nghìn năm vương vấn như lời thơ xưa Tiết Đại hàn đến chưa Mộc vận Trước ba ngày vận Hỏa hận thanh minh Ba ngày Mang chủng thành hình Ai hay Thổ vận rập rình theo sau Sáu ngày tới Lập thu Kim vận Chín ngày đầu lận đận Lập đông Khen thay tạo vật hóa công Muôn hình vạn trạng dõi trông mọi miền Cứ năm nhà túc duyên kỳ lạ Vợ hợp chồng vàng đá trước sau Giáp chàng nàng Kỷ cưới nhau Hóa ra vận Thổ một màu sắt son Ất Canh lại héo hon lòng dạ Mộc cây trầm sỏi đá Đinh Nhâm Bính Tân xem cũng chẳng lầm Thủy tràn lai láng lâm dâm sông hồ Vầng quang hỏa anh Mồ Chị Quý Bướm hoa sầu bi lụy khi mô Bởi năm hóa tạo ô hô Đôi bờ ân ái nhấp nhô sóng vờn Giàu tiền bạc chập chờn Kim mệnh Mộc thành rừng toan tính sau đây Thủy tuôn cuồn cuộn ngập đầy Hỏa thành ngọn lửa bấy chầy phương nam Suy sét ra từng năm vận khách Tính theo niên đành hạch chi ai Gỉa như Giáp Kỷ trúc mai Hóa ra hành Thổ khứ lai kể gì? Thổ sinh Kim vận nhi là vậy Kim sinh thành thủy ấy vận ba Thủy sinh mộc nảy gần xa Rừng cây chen chúc đó là vận tư Mộc sinh hỏa luận từ kinh dịch Bảy mươi hai ngày tính năm nay Lại dư năm khắc nào hay Lấy năm Giáp Kỷ lời thaỳ nói ra Bao năm nữa đều là như thế Phải coi chừng nặng nhẹ vân vi Đổi thay thay tinh tú các vì Ai hay xoay chuyển mấy khi ngũ hành Giáp bính mậu nhâm canh thái quá Bất cập đành nhân quả dương phân Năm đinh ất kỷ quý tân Còn bao trắc trở về phần âm can Phải biết được đaị hàn trước tiết Mười ba ngày khẩn thiết thái tiên Rồi sau tính đến hậu thiên Hai mươi sáu chẵn hậu tiên giao bàn *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 17.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 10 Đất có hậu thế gian trời định Cậy khôn ngoan mưu tính cái gì? Ngư tiều đến ải Địa Chi Thấy non lục khí đường đi ngoằn ngoèo Rừng âm u hắt heo chủ khí Cỏ đá chen vị trí đổi thay Mỉm cười Đạo Dẫn cho hay Có mười hai chữ vần xoay bốn mùa Dần Mão Mộc sim mua nở rộ Tiếng ve sầu tu hú gọi hè Hương thu thân dậu kim khoe Tiết đông hợi tý nước be dũng tuyền Thìn tuất sửu mùi liên đất lạnh Tứ quý càng hiển hách từng mùa Luân phiên sáu đợt ấn bùa Líu lo chim chóc gió lùa nắng xuân Lửa phừng phừng tới tuần quân hỏa Tiết xuân phân chuyển hóa hai ba Viêm oai hừng hực sơn hà Thái âm mưa móc cửa nhà nhá nhem Dương minh tới lom lem khô héo Thái dương hàn khí kéo rèm bưng Hân hoan uống chén rượu mừng Trai thanh gái lịch tưng bừng kết hôn Sáu hơi chủ thần hồn chẳng dứt Cứ từng năm giành dựt trời an Luân phiên từ tiết đại hàn Chính trong ngày ấy giao ban khí đầu Hơi bình chẳng trước sau tuần tự Sách Tàu ghi hai chữ tề thiên Bảo rằng “binh khí chi niên” Để cho chủ tử chính chuyên canh phòng Từ sáu cặp thong dong xung đối Xây vòng chia chẳng vội định ngôi Ô hay khách khí xa xôi Mong cho tý ngọ bồi hồi thiếu âm Xây một tòa thái âm quân hỏa Sửu đối mùi đe dọa thiếu âm Thái dương hàn thủy xuống tầm Đùng đùng sấm chớp mưa dầm liên miên Dần đối thân hoàng thiên tướng hỏa Khí thiếu dương phong tỏa giữ trời Quyết âm xuống đất muôn nơi Mộc truyền lan khắp xanh tươi một màu Năm mão dậu nhạt nhòa tý ngọ Ngược lại như chăng chớ tuất thìn Đắn đo tỵ hợi mỏi nhìn Đất trời u ám kìn kìn mây đen Giữ hoàng thiên vốn quen quân hỏa Dưới trần gian kim táo hai nơi Cầm quyền khí bốc lên trời Tư thiên tả hữu chơi vơi nẻo nào Ta cũng biết âm hao sáu khí Nam bắc kia ngọ tý chi niên Tuần hoàn ra thế liên miên Đất xung bên tả lan truyền khí sơ. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 18.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 11 Khí thứ hai dật dờ bên hữu Ngôi thiên tư thành tựu thứ ba Trời kia bên tả tư ra Đất thì bên hữu rõ là khí năm Tư tuyền chung lăm lăm khí sáu Hơi bốn mùa nương náu đến nay Thung thăng khoảng sáu mươi ngày Tám mươi bảy khắc nữa rày hữu cơ Ngọn lúa đòng phất phơ thấp thoáng Yếu quyết xưa ló dạng đầu bờ Niềm vui thao thức bao giờ Hai ngôi thoái lại đợi chờ mỗi niên Cứ xuôi ngược đầu tiên chẳng trách Tý thiên tư bức bách về đâu Hai heo ba chuột bốn trâu Năm hùm sáu thỏ trọn xâu dẫn truyền Mão tư thiên xoán liền ngôi sửu Dấy khí sơ hùm thỏ đến rồng Rằng hai ba bốn đã thông Năm trăn sáu ngựa trọn công tư truyền Hai năm ấy lệ biên lâu nữa Này những năm thấp thổ tư thiên Thấy ngay hàn thủy đến phiên Như năm tướng hỏa mộc nhiên tạo thành Bởi chính hóa giao tranh đối lại Chẳng đồng nhau trở ngại gốc trồng Ngựa dê gà cọp heo rồng Chuột trâu khỉ thỏ rắn muông đua giành Theo gốc số bẩm sanh tạo hóa Đối nghịch nhau thời họa thực hư Thiếu thừa theo luật bù trừ Chỗ tiêu nơi bản đều từ ấy ra Thì hãy dở sách tra sẽ thấy Càng thấm nhuần lời dạy thực hay Cổ kim năm khí vận may Máy trời sáu khi xưa nay tỏ tường E khách chủ hai đường lẫn lộn Khó toan bề bận rộn ngó coi Đạo Dẫn tạo vật sáng soi Khí theo khí xét rạch ròi sử biên Như giáp tý chi niên giả dụ Vận khí chia quyền đủ một năm Giáp tìm thổ vận duyên cầm Tý đưa quân hỏa âm thầm khí đi Khách gia cũng chỉ vì trên chủ Chủ chịu lòn khí tụ ngưng tà Đất trời chẳng chịu dung hòa Trái ngang hơn thiệt mới ra bất tề Mùa xuân ấm chẳng về xoa dịu Gió heo may bấu víu lạnh lùng Mùa hè hơi nóng tận cùng Khí âm ẩn núp hãy hùng khí dương *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 19.3.2020 Lu Hà