Kỉ niệm 23 năm ngày mất của Thi sĩ Thế Lữ (3.6.1989 – 3.6.2012), 105 năm ngày sinh (6.10.1907 – 6.10.2012) Trích lời giáo sư Nguyễn Liệu về Thế Lữ : "Ông là một trong Thất Tinh (1) – 7 ngôi sao chói sáng – trên bầu trời văn chương Việt Nam (sau đó là Bát tú) . Ông cùng ba anh em nhà họ Nguyễn Tường: Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh). Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo). Nguyễn Tường Lân (Thach Lam) với Khái Hưng, Tú Mỡ, Trần Tiêu – dựng lên tổ chức Văn bút nối tiếng, uy tín – của nền văn học Việt Nam ở thập kỉ ba mươi, thế kỉ 20: Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ, 1932 – 1939). Cho đến đầu năm 1930, thi đàn Việt Nam chỉ thịnh hành thơ Đường, thơ Lục Bát, và các thể thơ có quy tắc. Thế Lữ và các bạn quyết định phá vỡ sự gò bó này bằng thực hiện loại thơ khác tên gọi Thơ Mới. Khi xuất hiện Thơ Mới, những người bảo thủ phản đối kịch liệt. Thế Lữ cùng các bạn trong nhóm kiên quyết bảo vệ, phát triển. Ông ít viết phê bình, tranh luận về Thơ Mới, nhưng lại ‘’tả xung hữu đột’’, sáng tác thơ nhằm khẳng định sự ra đời đúng đắn, kịp thời của nó, bằng những bài thơ cụ thể, qua đó chứng minh, phê phán phái “thủ cựu” đang khư khư giữ lấy thể thơ cũ gò bó, sáo mòn. Cuối cùng Thơ Mới được đông đảo người làm thơ, yêu thơ đương thời tán thưởng. Có thể nói không ngoa: Nhờ Thế Lữ (và các bạn ông trong nhóm Thơ Mới) mà nền Thi Ca Việt Nam chuyển mình, theo thời gian phát triển mạnh … Đến hôm nay thơ Việt Nam – cả Thơ Mới và thơ Có quy tắc (cũ) – cùng nhau đổi mới, phát triển đạt được thành tựu rực rỡ, huy hoàng! Giới Văn, Nghệ Sỹ đương thời ghi công, “phong’’ cho Thế Lữ danh hiệu: ”Nguyên Soái Tao Đàn”. Nhớ Rừng là bản anh hùng ca, là bưc thông điệp ca ngợi Tự do thông qua hình tượng’’Con hổ trong vườn Bách thú’’. Khi bài thơ được đăng tải trên hệ thống truyền thông của TLVĐbưc thông điệp, lời tuyên ngôn của tác gỉa về tự do, đi đến thuộc lòng nhiều câu, thậm chí cả bài (dài 48 câu). Bài thơ được viết ở thể Thơ tự do – câu tám chữ. Thơ – Mới toàn diện : Từ cấu trúc, ý tưởng, phong cách diễn đạt đến ngôn từ xử dụng. Nổi bật nhất là nhạc điệu, chất trữ tình bay bổng, chất ‘anh hùng ca’ của thi phẩm…" Sầu Ca Chuá Sơn Lâm cảm tác thơ Thế Lữ: Nhớ Rừng Mang một khối hờn căm vào cũi Chuá sơn lâm lầm lũi thở than Gầm gừ cám cảnh chiều tàn Phong sương kiêu bạc tháng dần ngày qua Con mãnh hổ vào ra tủi hận Khinh lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ Nhọc nhằn nhục nhã thân cô Sa cơ phải chịu lao tù khổ đau Chúng háo hức gần xa tấp nập Đua chen nhau tới tấp đến xem Bớm ong bay lượn quanh thềm Bạn bè lơ láo từng đêm khóc thầm Vợ chồng gấu xì xầm rên rỉ Suốt cả ngày tăm tối dở hơi Chuồng bên cặp báo xa xôi Trầm tư đôi mắt một thời oai phong Buồn nuối tiếc mênh mông rừng thẳm Xót phận mình ảm đạm hôm nay Bao nhiêu trằn trọc đắng cay Tấm thân nô lệ đoạ đầy tháng năm Tiếng gió thét thăng trầm dâu bể Hỡi quê hương nỗi nhớ xa xưa Tung hoành giưã chốn rừng già Kiêu căng hống hách còn đâu hết rồi Nghe khúc nhạc một thời dữ dội Đoàn hùm beo khí thế đang hăng Vai u cuồn cuộn nhịp nhàng Cỏ gai lá sắc bẽ bàng hoàng hôn Trong bóng tối chập chờn khí sắc Đôi mắt ta sáng quắc ngọn đèn Muôn loài khiếp sợ lo phiền Say mồi lãnh chuá triền miên tháng ngày Chốn hoang dã cáo cầy mấy đưá Thần phục ta khiếp viá kinh hồn Mê man từng miếng thịt ngon Thỏ dê mềm mại đàn con lụi dần Uống ánh trăng oai thần sơn chuá Tiếng chim ca giấc ngủ tưng bừng Vươn vai máu chảy ngập rừng Nay đâu còn nưã oai hùng tiêu tan Thời oanh liệt ngút ngàn thù hận Ôm niềm đau khổ tận cam lai Canh khuya rền rĩ mãi hoài Cháu con hậm hực tương lai phũ phàng Ta ghét cảnh sưả sang giả dối Mấy gốc cây cỏ dại tầm thường Nước đen suối chẳng thông giòng Những mô đất thấp lòng thòng điêu ngoa Chúng bắt chước hoang vu ẩn dã Cảnh oai linh hùng cứ nước non Hùm thiêng một thuở vàng son Mà nay thân phận tôi con ươn hèn Ta ngao ngán đồng tiền nhơ bẩn Giấc mộng vàng tan biến mất rồi Rừng xanh kiêu hãnh ta ơi Tự do vùng vẫy là nơi thiên đàng. 4.6.2012 Lu Hà Nguyên tác cuả cuả Thế Lữ: NHỚ RỪNG (Lời con hổ trong vườn bách thú) Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm Nay sa cơ bị nhọc nhằn tù hãm Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi Với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây gìà Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi Với khi hát khúc trường ca dữ dội Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc Trong hang tối mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật đều im hơi Ta biết ta chúa tể cả muôn loài Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi. Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội Tiếng chim ca – giấc ngủ ta tưng bừng Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt Để ta chiếm riêng phần vùng bí mật Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu! Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu Ghét những cảnh không đời nào thay đổi Những cảnh sửa sang tầm thường giả dối Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng… Giải nước đen giả suối chẳng thông giòng Len dưới lách những mô gò thấp kém Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu Của chốn ngàn năm cao cả âm u Hỡi oai linh cảnh nước non hùng vĩ Là nơi giống Hùm thiêng ta ngự trị Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa Nơi ta không còn được thấy bao giờ ! Có biết chăng trong những ngày ngao ngán, Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi. Hỡi rừng xanh kiêu hãnh của ta ơi! (3) Thế Lữ 1). Thất Tinh – Bẩy ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương, gồm: 3 anh em : Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân) với Thế Lữ, Tú Mỡ cùng hai anh em Khái Hưng, Trần Tiêu (em Khái Hưng). Bát Tú – Tám nhà văn ưu tú (8 vì sao sáng) : Ngoài 7 người trên , kết nạp thêm Xuân Diệu. (2) . Thi Nhân Việt Nam – trang 68 – nxb Văn học tái bản năm 2003 (3)- Câu này lấy trong Bản in của Tuyển tập Văn – Thơ Việt Nam 1930 – 1945, xuất bản vào đầu những năm 60 của thế kỉ 20. Còn bản in trong Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh xuất bản năm 1942 – câu này nguyên văn: Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi !