Bức Thư Sầu Thảm chuyển thể thơ Tô Thuỳ Yên: Tháng Chạp Buồn Mưa lất phất mai vưà hé nụ Gió heo may món nợ lao tù Sinh ra trong cõi ta bà Nỗi niềm oan trái thiên thu tủi sầu Tết đã đến con chưa về được Nghĩ mà đau thân xác rã rời Nhớ thương biển rộng sông dài Quan san cách trở tình người biển khơi Xa biền biệt tái tê vô hạn Suốt chín năm khổ tận cam lai Trung du Bắc Cạn Lào Kai Khỉ ho cò gáy ma chơi rập rình Con đã khóc hồn thành nước mắt Có ai hay đời hết ban mai Âm u nhặng đuổi ruồi bay Tuổi con đã quá một thời vàng son Thân đày đoạ chín năm áo vá Hồn phiêu diêu lạc giưã màn đêm Trải bao ác mộng âm thầm Hàng hiên lã chã mưa dầm mãi sao?... Buồn tưởng nhớ mai già đầu ngõ Gió heo may thầm nhủ nở hoa Xót xa tủi hận hồng đào Tháng năm xơ xác uá màu sương rơi Căn nhà lá chẳng ai tu sưả Tấm phên tre ngọn gió luà qua Sân vườn cỏ dại ganh đua Khói lam ảo não mẹ cha âu sầu Học cải tạo canh khuya thức giấc Xã hội đen từng bước dã man Từng bầy vàng vện chó săn Trả thù quân cán con dân cộng hoà Rừng Việt Bắc vi vu giá buốt Chín năm dài sống xót là may Sắn khoai nước suối qua ngày Nuôi mầm hy vọng đất trời kinh thiên Tết năm nay trời đen mây rủi Giọt mưa xuân buốt nhói tim đau Nhạn bay thăm thẳm sông hồ Nhắn tin cầu nguyện mẹ cha an bình Thư viết tiếp để dành cho vợ Chắc em buồn như gió muà thu Lơ thơ cỏ uá xác xơ Dòng đời hiu quạnh thờ ơ chán chường Gần thập kỷ buồng không vắng lặng Những tiếng vang nhịp đập con tim Trễ tràng biếng trải cài trâm Đầu bù tóc rối âm thầm khổ đau Kià bến nước đôi bờ hờ hững Lục bình trôi lẳng lặng xót xa Cá bơi dưới nước lờ đờ Trên trời một cánh chim sa ngỡ ngàng Xuân cứ đến não nùng bày tỏ Xuân lại đi bỏ lỡ má hồng Mưa xuân trằn trọc canh trường Mưa nhoè ngấn lệ mắt nàng Hằng Nga Còn ở đây xuân đâu thèm đến Tấm chăn đơn lận đận vụng về Âm u quang cảnh não nề Gầm gừ cơn lũ con đê hãi hùng Lòng cuả anh tan hoang đổ nát Như con đê thảm thiết quê hương Sóng tràn máu đổ thê lương Nhọc nhằn vất vưởng vấn vương u hoài Đêm thanh vắng muôn loài tê tái Nhớ con đường sớm tối em đi Hiu hiu ngọn cỏ rối bời Ủ ê nhan sắc đất trời cảm thương Bao kỷ niệm vợ chồng trỗi dậy Dòng sông thương nước chảy nắng vàng Hai hàng phượng vĩ rỡ ràng Đầu xanh núp bóng ngô đồng bao la... Hồn phảng phất miền xa quê nhớ Gió lao xao thầm nhủ em yêu Căn nhà như giấc chiêm bao Em tôi bé bỏng dáng chiều dạ lan Anh biết chứ nỗi buồn xa cách Chín muà xuân mỏi cánh chim bay Dặm trường cách trở xa xôi Hoa vườn ủ rũ phôi phai cánh vàng Con chim khách quên đường chẳng đến Lau sậy già tủi hận cành khô Gợi miền gió cát xanh xao Phi lao thầm bảo hết muà trầm luân ! Đoạn thư cuối nỗi niềm trăn trở Viết đôi dòng nhắn nhủ con thơ T ừ ngày cha phải đi xa Tháng năm lầm lũi bơ phờ xác xơ Đời lặng lẽ bơ vơ trần thế Nhà trống trơn nóc rỏ giọt rơi Đầm đià mưa ướt mắt nai Mỗi lần có khách mừng vui ngập ngừng Con sáo sậu trong lồng đã chết Chín năm rồi con biết vì sao? Cha con xa cách bến bờ Vì ai gây cảnh chia lià tình thâm... Tình cốt nhục nghĩ thêm rầu rĩ Tiếng côn trùng phụ tử xót xa Nưả đêm thức giấc ngẩn ngơ Màn đen thăm thẳm bơ vơ cõi lòng Tuổi đi học mà trường không nhận Hận căm thù bẻ ngọn vùi hoa Chính quyền sủi bọt máu trào Buá liềm cờ đỏ đạp đầu dân đen Nếu có phải bước qua trường cũ Vội đi nhanh vì sợ bạn kêu Cái thằng cha nó đi tù Lần hồi rau cháu muối dưa cua đồng Con cứ lớn ngày thương tháng khó Mơ ước thành tráng sĩ thẳng ngay Đàng hoàng dũng cảm ra người Làm nên thế giới tinh khôi nét vàng Tạo lịch sử oai hùng chiến cuộc Đôi mắt đen tổ quốc reo ca Hương nồng nắng hạ tóc tơ Lâng lâng cắp sách tuổi thơ đến trường Con yêu dấu canh trường đêm thảm Nghĩ đến con ảm đạm sầu tư Tiếc rằng lá rụng vàng thu Mái đầu nhuốm bạc giấc mơ tuổi vàng Muà hạ cũ băng băng tuổi trẻ Thuở xa xưa phấp phới diều bay Bỗng đâu ngọn cỏ sương rơi Vẫn còn hồi tưởng đất trời nổi giông Hồn vật vã thê lương thảm khốc Đống tro tàn thành phố bi ai Dép râu mũ cối kéo về Nhà tan cưả nát đất trời đảo điên Con nhớ nhé nỗi niềm than thở Lời cuả cha thổ lộ đêm nay Dặn dò sau trước mọi nơi Cây nêu tràng pháo tết này vắng cha. 12.7.2010 Lu Hà Cảnh Tượng Chết Đói Năm Ất Dậu Kính viếng 2 triệu đồng bào chết đói năm 1945 Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ Giống Lạc Hồng thảm hoạ bi thương Triệu người chết đói đầy đường Thân tàn ma dại thê lương hãi hùng Cảnh rùng rợn Bắc Giang Hà Nội Từ Thái Bình đói tới Gia Lâm Dọc đường ngắc ngoải rên nằm Nắng thiêu nhầy nhuạ bụi lầm mưa tuôn Giưã đống giẻ chỉ còn hố mắt Chút hồn người phảng phất thây ma Tay gày quờ quặng khua khoa Hình hài vô ảnh nhạt nhoà sương mơ Dưới mớ tóc bù xù kết bánh Làn da đen như dính xương đầu Nhe răng thè lưỡi sọ dưà Ruồi bu lúc nhúc quỷ ma cảm sầu Già bên trẻ đàn bà con gái Họ giống nhau còm cõi xác xơ Bộ xương di động dật dờ Sặc mùi tử khí mịt mù gần xa Trời quan tái âm u ảo não Mùi thối hôi ghê sợ thoảng kinh Dị kỳ ám ảnh quanh mình Khiến cho cả tháng giấc lành chẳng an Khi nghĩ tới chán ăn mất ngủ Những thây người mắt mở trợn trừng Nỗi niếm thống thiết rưng rưng Miệng thì méo xệch não nùng bi ai Có xác chết ba ngày nằm đó Ruồi tám phương xấn xổ vo vo Một vài nhát cuốc hững hờ Đào đào lấp lấp nấm mồ dối gian Có gò mối lộ thiên hài cốt Bầy chuột hoang chí chát từng đàn Cơn mưa xối xả chan chan Khắp nơi rải rắc thịt tan xương lòi Tại Hà Nội mùi hôi nồng nặc Khắp phố phường ngơ ngác tóc râu Tanh tao hơi hớm ruồi bâu Đầu đường góc chợ chân cầu lăn quay Thường buổi sớm, hé ngay cánh cưả Rụt rè nghe đâu đó khóc than Xác người dúi dụi rất gần Xe bò bánh rít khô khan nẻo đường Từng đồng xác chất chồng như rác Kià cái đầu ngúc ngắc bàn chân Cánh tay tím ngắt teo nhăn Chơi vơi bấu víu níu làn hơi sương Như cầu cứu tình thương rơi rớt Hơi thở tàn thảm thiết chưa thôi Cưạ mình tiếng nấc tròng ngươi Người chôn chưả chết rã rời tả tơi Từng dãy huyệt khắp nơi đào vội Bốn cưả ô vôi rải thường xuyên Ruồi bay mây rợp một miền Xót xa hai triệu phận hèn chết oan! Chú thích: cảm tác từ thơ tự do cuả Bàng Bá Lân: Đói 11.6.2012 Lu Hà Chiếc Nón Bài Thơ Đây chiếc nón bài thơ xứ Huế Gửi em yêu bông huệ hồn anh Thương em mưa đổ nắng hanh Không gian cách biệt trời xanh tỏ lòng Em có biết trùng dương dặm thẳm Mảnh tình xa gói ghém bài thơ Ước mong thổn thức đợi chờ Nhịp cầu hy vọng đôi bờ biệt ly Nghìn đêm lẻ thần kỳ cổ tích Phải chi ta thắm thiết mãi hoài Hoàng hồn ngả bóng canh dài Nghe anh kể chuyện bi ai đoạn trường Tình diệu vợi trong vòng tay với Dòng sông hương đắm đuối những chiều Ngân vang xoa dịu cô liêu Chuông chuà Thiên Mụ dáng Kiều thướt tha Thăm núi Ngự rặng dưà lam toả Vui lòng người viễn xứ xa xôi Lăn tăn cá nhảy hoa cười Trăng ngà mây trắng ra khơi cánh buồm Nhịp Trường Tiền gió nồm ngây ngất Trời quê hương da diết đắm say Mặn nồng như thuở vơi đầy Mà nay biền biệt đắng cay phũ phàng Chiều gió lộng lá vàng rơi rụng Nhớ người yêu đằng đẵng cách xa Nưả vòng trái đất bao la Ngậm ngùi giọt lệ chân cầu mưa bay ! cảm tác từ thơ 8 chữ cuả Nguyễn Đỗ: Quà Quê Hương 8.10.2012 Lu Hà Chiều Thu bến Nhà thơ phúng điếu hương hồn thi sĩ Nguyễn Chí Thiện Nguyễn Chí Thiện bạn tù năm đó Ông ra đi trời đổ cơn mưa Nhớ ông một thuở xa xưa Thuốc lào mấy điếu đưa qua kẽm rào... Mắt lại kém bụng teo đói thắt Thấy gì đâu vũng đất thâm sâu Cảm thông nhặt được tình nhau Lờ mờ khung cưả tò vò xót xa Còng số tám vật vờ loạng choạng Hai bóng ma quờ quặng chập chờn Cùng nhau kiếp nạn căm hờn Tôi Nam ông Bắc lệ tuôn đôi dòng Hai xà lim thê lương ảm đạm Cách bức tường thương cảm bi ai Tù nhân lũ lượt mãi hoài Sa cơ lỡ vận đêm dài âm u Tôi hải ngoại trở về phục quốc Còn ông thì nỗi nhục hắc nô Oán thằng nói láo tự do Nên ông khạc đạn dùng thơ bắn thù... Giưã canh khuya ngâm nga ông đọc Giọng khàn khàn lúc đục khi trong Tôi nghe mà thấy mủi lòng Vài câu chuyển vận xót thương não nùng Nàng thơ dậy thênh thang hưng phấn Bóng cai tù lấn cấn dép râu Rình mò nghe trộm vài câu Thì thào chó suả gầm gừ hành lang... Nàng thơ bỗng lăn quay ngất xỉu Vờ lặng đi chẳng nói chẳng rằng Dòng đời trôi nổi hành trang Vòng quay Âu - Úc võ vàng tấm thân... Ta lại gặp ưá tràn dư lệ Đất Hoa Kỳ lặng lẽ hoàng hôn Giọng ông khàn đục tủi hờn Mắt ông vẫn kém thơ tuôn nghẹn ngào Thơ đúc đạn xuyên vào não trạng Hai bảy năm đằng đẵng ngồi tù Mười năm tôi lãnh cũng dư Chuyện đời gãi ghẻ mịt mù sương tan... Miễn hồn vẫn sắt son sông núi Trăm con sông biển mẹ theo dòng Muà xuân vũ trụ chung lòng Ngồi nhau bên cạnh tình thương nhân loài Chẳng cần đuổi muỗi ruồi nó bám Rít thuốc lào da xám mặt xanh Đoá hoa điạ ngục trên cành Hiến dâng tổ quốc trường thành ta xây Tôi gục xuống đắng cay chiếc bóng Có mấy vần lẽ sống gửi ông Đời ta giấc mộng vô thường Trọn tình chiến hữu quê hương giống nòi... Hồn phiêu bạt chân trời xa lạ Hay nơi đâu trên quả điạ cầu Tôi nay cũng bạc mái đầu Lá vàng rơi rụng chiều thu bến nhà...!!! Thơ phỏng theo thơ tự do cuả ông Võ Đại Tôn từ Úc Châu:" Tạm Biệt Bạn Tù Nguyễn Chí Thiện " 6.10.2012 Lu Hà Cô bán Hoa Đêm Em đứng nép bên hè phố vắng Như loài dơi nấp bóng hang sâu Làn môi son nhợt u sầu Chập chờn ánh sáng nhạt màu sương rơi Em đang đợi một người không hẹn Chẳng kể ai lận đận bước qua Chút tình hoa dại mưá thưà Hiến dâng tất cả chẳng chưà cho em Từng đêm tối êm đềm tóc rối Má phai duyên đẫm gối thẹn thùng Ôm lưng áp mặt bùng nhùng Bàn tay lóng ngóng lạnh lùng chơi vơi Người khách lạ lạc loài hoang dại Con mèo rừng tê tái muà trăng Em chờ thân phận bẽ bàng Tình sầu tủi hận dở dang lỡ làng Men rượu cặn điếm đàng cay đắng Vệt thời gian trĩu nặng đôi vai Nhục nhằn nhơ nhuốc canh dài Chăn nhàu váy ướt tháng ngày lầm than Em đã khóc trần gian ghẻ lạnh Kiếp phận nghèo cám cảnh hoa rơi Côn trùng thảo vật say rồi Nhà ai đèn tắt xa xôi mịt mờ Rồi kéo vội dải đào yếm luạ Bước chân đi sa đoạ thương đau Chút tiền ân ái đêm thâu Nuôi cha dưỡng mẹ tuổi già quạnh hiu! cảm tác từ thơ 8 chữ cuả Nguyên Sa: Đợi Khách 15.10.2012 Lu Hà