Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 61 Trẻ ấu thơ mặn mòi cá nước Đức hiếu sinh thao thức lòng trời Tổ sư bào chế cứu đời Bệnh nào thuốc ấy rạch ròi xưa nay Lợi thế tục nhiều thày chẳng ngại Lang băm càng tác hại tiểu sinh Kỳ Hoàng đạo học chứng minh Khen thay trị bệnh thấu hình thực hư Đơn thuốc hay chân như cứu độ Danh tiếng thơm sư tổ ghi công Học trò rõ chước biến thông Huyền vi y thuật mênh mông tấm lòng Kiếp nhân sinh long đong trời đất Thuốc nhi đồng sài giật nóng ban Tử kim đĩnh, khỏi luận bàn Quánh đờm ho nặng gian nan vô cùng Bệnh sởi đậu phải dùng trợ vị Lở lưỡi môi từng tí nhẹ nhàng Kê đơn hóa độc đúng thang Bảo long tinh tán thung thăng đáng tiền Thiên châm hoàn, giảm liền nôn mửa Sốt hãm luôn cứu chữa tới nơi Nên dùng lô hội kịp thời Chứng cam nên nhớ rạch ròi trước sau Thuốc đã có phải mau ứng dụng Ngư với Tiều tìm đúng phương hay Hai chàng gặp bạn là may Nhập Môn ưu ái tháng ngày chỉ cho Đệ tử ruột tài cao uyên bác Kỳ Nhân Sư tọa lạc nơi nao? Ngư Tiều cảm khái dạt dào Mong thày trở laị nghẹn ngào lệ sa Khắp thiên hạ trăm nhà ngưỡng mộ Bạn của thày tri cố hai ông Họ tên là Hưởng Thanh Phong Ảnh Minh Nguyệt lão tinh thông y truyền Chẳng vướng bụi thiên nhiên tạo hóa Bậc chân nhân tỏa đóa hoa mai Thanh tâm khí tượng anh tài Mỗi người một vẻ gót hài thần tiên Thày ta vẫn thường xuyên thăm viếng Với bạn hiền nức tiếng gần xa Sẵn lòng Sào, Hứa ngâm nga Tề, Di mát mặt trăng ngà bể dâu Ba mươi sáu cung bầu hạc lỷ Hưởng Thanh Phong tri kỷ mấy ai Kỳ Nhân Sư một thiên tài Ảnh Minh Nguyệt cũng hương lài thoảng bay Vòng hối thực men say thoát khỏi Đời tối bưng le lói bình minh Ngẩn ngơ nhìn lại bóng mình Mây lồng đáy nước lung linh góc trời *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 5.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 62 Hai mươi tám sao chơi bốn biển Chán hư danh hiện diện dáng hình Gương thềm ngọc thỏ lung linh Vầng trăng sáng tỏ cung nghinh tiếng đàn Nhập Môn đang chứa chan thơ đọc Bỗng khách đâu mời mọc thỉnh cầu Chúa Liêu triệu đến sân chầu Tôn sư rầu rĩ mái đầu tuyết sương Chức thái sư Liêu vương ép buộc Bổng lộc nhiều bốc thuốc kê đơn Tôn sư căm giận oán hờn Dật dờ sớm tối chập chờn bóng mây Lòng bi phẫn bấy chầy thân phận Kỳ Nhân Sư tủi hận chẳng ra Dân tình thống khổ kêu la Cửa nhà tan nát sơn hà giá băng Thày cáo bệnh chẳng màng chức tước Sợ triều đình ngờ vực sinh nghi Nhập Môn chẳng rõ bệnh gì? Vội vàng chuẩn bị ra đi thăm người Ngư Tiều cũng tức thời biện lễ Huynh đệ càng tri kỷ tương thân Đan Kỳ theo lối đi gần Gió nồm nam thổi đằng vân ráng chiều Trời miền tây tiêu điều cảnh vật Làn hơi sương phảng phất hồ sen Non Kiều cây mọc cỏ chen Hang sâu vực thẳm bao phen tuyết dày Hươu vào động hạc bầy về núi Ba người vừa cắm cúi bước vào Thấy ngay Đạo Dẫn đón chào Mời vào y quán nghẹn ngào trước sau Thày chẳng chịu tự mù đôi mắt Chốn thiên thai đóng chặt cửa thiền Xông hai mắt đỏ triền miên Sứ Liêu cũng chịu lụy phiền não thân Cảnh nước mất nhà tan tang tóc Dân lầm than kêu khóc khổ đau Oán cừu thù hận theo nhau Trẻ già trai gái dãi dầu nắng mưa Nhập Môn nghe nhặt thưa lã chã Giọt thương người lọ đá nát lòng Trách thầm Minh Nguyệt Thanh Phong Không ngăn cản được, hai ông phụ thầy Không cố khuyên để vầy sao nỡ Cảnh mù lòa món nợ y khoa Tật tàn đôi mắt ướt nhòa Di, Tề ẩn dật muối rau qua ngày Nơi non Thú ai hay cam chịu Chẳng chịu quỳ bám víu nhà Chu Quản chi rừng núi âm u Mai danh ẩn tích thiên thu u hoài. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 5.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 63 Đơì chiến quốc tranh tài vương bá Danh chẳng sờn sắt đá kinh luân Như ông Qủy Cốc ẩn thân Học trò tuấn kiệt non gần đỉnh xa Núi Thương Sơn bao la hùng vĩ Bốn lão phu an trí tuổi già Công danh chi nữa đá bia Nào ai ràng buộc bên rìa tử sinh Thú cày câu mặc tình lộc Hán Nghiêm, Châu cùng lánh nạn công hầu Tiên sinh Ngũ Liễu dãi dầu Gặp cơn Tấn loạn mái đầu bạc phơ Đào tể tướng hững hờ phú quý Tướng sơn trung quy lụy phiền ai Chúa Lương khuất lễ vật nài Mới ra giúp sức trổ tài công huân Tùy vô đạo dấn thân dạy học Họ Vương kia khó nhọc Phần Hà Luyện rèn mưu sĩ tại nhà Trúc Lâm chén rượu nhân hà sầu ly Bọn Lan Đình nhung y lả lướt Thơ nhạc say sướt mướt với ai Bụi Hồ vẩn đục chi hoài Hành tàng hai chữ nguôi ngoai nỗi lòng Hãy gỡ bỏ hết vòng danh lợi Vật ngoài thân chới với bạc tiền Sống cùng non nước thần tiên Chính tâm an tọa sầu miên khước từ Thuở Yêu Ly riêng tư khác biệt Khổ nhục nào nhất thiết trừ hung Lo âu tiếng nhạc mịt mùng Như ông Sư Khoáng đường cùng thảm thay Tự xông khói mù ngay đôi mắt Trời nỡ lòng xiết chặt dây oan Sao không dốc sức khuyên can Để cho Sư Phụ tật tàn bấy nay? Đạo Dẫn than giãi bày mọi lẽ Nào ngờ đâu rành rẽ lời hay Thày rằng: Trời đất xưa nay Vần xoay khí vận đổi thay chính tà Vũ trụ luận nhân hà thế tục Xen hình hơi thúc giục trôi ra Hiếu sinh con tạo thiết tha Dưới là ngũ nhạc trên là tam quang Đường chính đạo thênh thang ta bước Còn cách nào tỉnh thức lê dân Yêu ma ác quỷ vô thần Xâm lăng lấn chiếm giết dần chúng sinh Đời ngũ đế thái bình thịnh trị Là bởi vì vận khí thịnh lên Nhân hòa hợp với hoàng thiên Ba giềng năm dạy tự nhiên an lành *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 6.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 64 Khi vận ách trời xanh u ám Đầy gian truân ảm đảm châu đông Ghe keo lạc Sở mênh mông Bảy hùng năm bá tranh công lấp dòng Hết nhân nghĩa đỏ lòng xanh vỏ Bầy cáo chồn mọi rợ vô luân Thánh hiền nấp bóng dấu thân Cọp trong rừng vắng khí phân rối nùi Chịu cơ cầu phanh phui đâu dám Sự đời càng thê thảm thương đau Tôi loàn con giặc tranh nhau Hơi tà ngăn bủa bạc màu sơn khê Hơi chính đâu dãi dề năm tháng Chẳng còn nhiều cay đắng ê chề Than ôi! Cái giản nước tề Ba lần quan sử nối đề “ thí vua“ Vua nước Tấn đối đầu trước hết Làm đồng hồ ngòi viết biên ra Chính cây chùy Bác Lãng Sa Trương Lương vì chúa đánh xa Tần Hoàng Bay phần phật Tô lang cờ tiết Nô đọa đày thảm thiết gian nan Mất đầu lão tướng Nghiêm nhan Trương Phi uất khí ngút ngàn bể khơi Chẳng chịu nhục ngậm cười chín suối Chính khí dâng dong duổi đế y Máu trào Kê Thiệu cứu nguy Cảo Khanh miệng lưỡi lâm ly chúa mình Thường Sơn kia cực hình chửi giặc Miệng Trương Tuần bạo tặc thất kinh Tuy Dương khảng khái bất bình Mắng bầy giặc dữ Quản Ninh kém gì Thời Tam quốc tru di cửu tộc Mất ô sa thảm khốc điêu linh Chính làm tờ biểu xuất chinh Ra quân bắc phạt Khổng Minh phất cờ Chèo Tổ Địch sang bờ dẹp loạn Diệt Yết Đê táng tận lăng loàn Qua sông cái hốt họ Đoàn Chặn đầu quan hoạn mưu gian soán Đường Hơi chính khí vấn vương tỏa sáng Ngọn lửa hồng bi tráng dấu ghi Một trường oanh liệt phù trì Nên câu ”thiên trụ địa duy” vững vàng Dòng hơi chính lang thang tản mạn Lạc xa đàng tao loạn sói mòn Dửng dưng thời cuộc nước non Chia năm sẻ bảy héo hon dường nào Vòng phú quý lao xao nhầy nhụa Cảnh triều đình nhớp nhúa gian thần Sớm tôi, tối chúa vô luân Mua quan bán tước bất nhân lộng quyền Quỳ mọp lạy hoàng thiên thánh thượng Mưa móc xin ban thưởng tước vương Chúa Liêu kiêu ngạo khinh thường Lê dân bách tính thê lương hãi hùng *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 8.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 65 Dân bị ép tận cùng dầu mỡ Khô xác ve nức nở đọa đày Mưa dầm nắng dãi lắt lay Tan đàn sẻ nghé đắng cay nỗi niềm Giặc Khiết Đan gọng kiềm xích sắt Sưu thuế cao xiết chặt đôi vai Bầy đàn xu nịnh lâu đài Tai ương reo rắt trong ngoài lấn chen Gió đồng nội bao phen cỏ lác Vong quốc nô ngơ ngác đất trời Ngựa xe đao kiếm muôn nơi Đất đai giành giật tả tơi xác người Khí hôn quân chơi vơi quang nhạc Sấm mùa đông hạ lạc tuyết bay Năm giềng ba mối heo may Sống thừa Y Phó loay hoay cuốc bờ Ta là kẻ bơ vơ xứ sở Phải cúi đầu tôi tớ người ta Còn đâu lãnh thổ sơn hà Vợ con thất lạc cửa nhà nát tan Chịu cơ cầu bần hàn sớm tối Cứu dân nghèo lặn lội đó đây Mặn mòi như bát nước đầy Nỗi lòng ai oán canh chầy thở than Phận lương y chứa chan tình nghĩa Dân tộc mình thấm thía tử sinh Trí quân hai chữ điêu linh Trạch dân đau đớn thân hình dở dang Suốt năm canh mơ màng thổn thức Giọt lệ rơi nao nức sóng dồi Tự do đôi cánh bồi hồi Lồng son cũi sắt phận tôi chúa người Thà đui mù thảnh thơi cất bước Dù kẻ thù bạo ngược nhiễu nhương Còn đâu trật tự kỷ cương Bàng môn tả đạo bất lương hoành hành Chẳng thấy cảnh dân lành tang tóc Giặc xâm lăng cướp bóc thẳng tay Thái y nô bộc hàng ngày Tham chi chức ấy đọa đày não thân Quyết giữ trọn tinh thần thể xác Sống làm chi nhận giặc làm cha Bán hồn cho quỷ ác ma Mù lòa trọn nghĩa ông cha đạo nhà Danh tiếng giữ thiên hà sông núi Chẳng hổ lòng luồn cúi ngoại xâm Cha con cốt nhục tình thâm Còn hơn sáng mắt nhẫn tâm lạc loài Sáng đôi mắt tham tài đắm sắc Thói a dua ngơ ngác hàng thần Quan nha cầu cạnh hại dân Vào ra luồn cúi Nữ Chân cáo chồn *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 9.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 66 Lũ ươn hèn luồn trôn cẩu tặc Sống làm chi reo rắc thị phi Bon chen nhân nghĩa bỏ đi Thảo ngay chẳng biết tôn ti khinh thường Trái thiên luân bất lương vô đạo Bầy hắc nô điên đảo thế nhân Ta đây giữ trọn tinh thần Thà cùng tạo hóa phong trần hư vô Gọi Đạo Dẫn dặn dò sau trước Nối nghiệp thày cốt được lòng dân Anh em non nước xa gần Lương y từ mẫu cứu nhân độ người Phận ta già thảnh thơi ngày tháng Chẳng bận lòng cay đắng xót xa Lánh xa thế tục quan hà Lần hồi sớm tối bóng tà tịch dương Ngư, Tiều hỏi Thanh Phong Minh Nguyệt Rằng hai ông chẳng biết làm sao Khoanh tay giọt lệ ứa trào Ý thày đã quyết nghẹn ngào triết nhân Thày chẳng những bảo thân giữ đạo Lại khen người chu đáo vẹn toàn Y lời thánh đức hiền nhân Nước an kẻ trí, loạn thần giả ngu Xưa cũng lắm đui mù câm điếc Gỉa ốm đau chẳng tiếc thân mình Lánh xa bổng lộc triều đình Hôn quân vô đạo dân tình lầm than Nay phải buổi gian nan xã tắc Hoa mão di lầm lạc phai mầu Nắng mưa cây cỏ dãi dầu Xuân Thu giữ phép mái đầu bạc phơ Sống chẳng để nhuốc nhơ tiên tổ Chớ coi thường ngồi đó đui rồi Hôn quân đạo tặc mấy hồi Trời con hơi chính gửi đôi mắt thầy Đợi thúc quý tan mây quang đãng Sông sẽ trong biển lặng bao la Mắt thày tức khắc sáng ra Thanh Phong Minh Nguyệt thiết tha tặng người Thuở tinh chiên cảnh đời tao loạn Truyện trăm nhà đại nạn tha phương Mấy ai trọn dấu thư hương Tròng đôi mắt thịt tấm gương đạo nhà Tần đế nhường danh gia họ Lỗ Hán vương đâu biết rõ thầy Trương Thôi đành ẩn dật tìm đường Kiền khôn một túi bốn phương cậy nhờ Thấy hai lão làm thơ đường luật Tỏ lòng thành chân thật xiết bao Nhân Sư đáng bậc nho hào Ngư Tiều ngưỡng mộ dạt dào mưa sa *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 10.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 67 Rung hạt lệ xót xa cây cỏ Trời đất sầu kim cổ khóc than Kính thày Sư Miện đằng vân Chiếu, thềm chớp giật thánh nhân cảm lòng Sách Bân phong Chu công chỉ bảo Dạy kẻ mù theo đạo Thành vương Xôn xao đệ tử bốn phương Trăm vua công dụng vào đường Nhạc sư Bởi “đạo tâm” chân như hai chữ Thầy đui mù lặng giữ lỗi chi Thánh hiền nể trọng kiêng vì Mặc bầy ngu xuẩn khinh khi chê cười Tiều muốn đến tận nơi thăm hỏi Việc trăm năm làn khói âm hao Việc đời oan ức mãi sao? Nuôi mầm hy vọng nghẹn ngào cơ duyên Chuyện nước nhà căn nguyên nguồn gốc Nỗi niềm đau tang tóc triền miên Chẳng hay chính sự U, Yên Hai ông thấu hiểu thần tiên ý trời Bất khả lậu hỏi người đâu dễ Máy thiên cơ chẳng để lộ ra Hai thày đã chỉ dạy ta Một bài thơ sấm thiết tha năm vần: “Năm quý đua cờ pháo ngựa qua Hai vua một gánh gửi vai bà Trời nam có thẻ cây sơn cắm Đất bắc còn vàng cốt đính pha Con thú một sừng binh mới gặp Cái người một mắt đá chưa ra Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng Bốn biển âu ca hợp một nhà” Đạo Dẫn đọc sâu xa ý nghĩa Giải từng câu thấm thía lẽ trời Thịnh suy phần cũng do người Đến đâu biết vậy sự đời hỏi chi? Ngư vái tạ thầm thì tai bạn Hai chúng ta nông cạn nghĩ suy Đợi thầy trở lại Đan Kỳ Thiên thai chốn ấy vân vy khó tìm Cũng biết vậy cánh chim sơn cước Nước mênh mông thần dược lâm y Thác cao suối chảy ầm ỳ Thâm sâu cùng cốc tà huy cuối trời Đạo Dẫn mới mỉm cười kín đáo Thầy trao tay chỉ bảo hai thiên Một pho Tiêu bản luận biên Hai là Tạp trị phú truyền cho ta Thày còn viết lời ca để lại Cả hai ngươi lo ngại làm chi Gắng công đạo hạnh tu trì Tinh thông y thuật việc gì chẳng nên. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 11.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 68 Thuốc đặc trị dĩ nhiên ngọn gốc Thân bệnh bàn âm thuộc ngọn dương Gốc âm năm tạng lẽ thường Còn dương sáu phủ khí đương mịt mờ Gốc mắc trước xác xơ phần ngọn Trị ngọn thì tà loạn bệnh tăng Thuốc hay ngấm gốc sẵn sàng Sợ chi biến chứng bệnh càng đẩy lui Nghề thày thuốc cũng vui lắm chứ Mở vòng tay chan chứa nhân sinh Rộng đường thông hiểu nội kinh Chẳng nên chấp nhất u minh hiếu kỳ Đừng hấp tấp cầu y bất đạt Thuốc năm mùi chứa chất âm dương Rõ ràng lỗi thứ lập phương Ví như viên tướng chiến trường dụng binh Không kỷ luật trao mình cho giặc Từ ngày xưa lầm lạc lỗi chi Còn đâu nam tử tu mi Y Lâm một một lũ „bất khi“ cũng đành Học rồi phải có hành mới được Lệnh tôn nghiêm sau trước sắt đanh Khí thời chẳng trọn mong manh Lừng khừng nhút nhát thanh danh sói mòn Thánh y dạy vuông tròn là chỗ Biết bao điều chăng chớ có không? Xem ra đọc sách buông tuồng Chữ y chữ ý chẳng đồng thuận nhau Luôn bình trắc trước sau lẫn lộn Ý tưởng y hỗn độn chấp phương Gốc tìm lối ấy dọn đường Giảm, gia, khử, thủ kinh tường trở ra Hợp, xuyên, trích tùy ta vận dụng Đạo Dẫn khuyên trị đúng bệnh tình Ơn dày trông cậy chúng sinh Đan Khê cùng đến đệ trình Sư tôn Lễ từ quy Nhập Môn nơi đó Lạy thầy ta hai họ Mộng, Đào Tiều phu ngày tháng hư hao Vợ mong nhà cửa nôn nao cõi lòng Bởi nghiệp y chưa thông mọi lẽ Phải trở về rành rẽ mới xong Ngày dài tháng rộng thong dong Tới sau thong thả phục tòng sư huynh Đường Nhập Môn hậu sinh khả úy Nhớ ơn thầy tận tụy trung thành Trước sau mong được an lành Theo nhau cũ mới thanh danh sáng ngời Không có thầy ta thời học bạn Tài đức cao rào cản bước đâu Sách y lắm chỗ thâm sâu Tinh thông kỹ nghệ dãi dầu công phu. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 12.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 69 Rừng văn biển học mù sương phủ Đấng tài hoa chẳng phụ tấm lòng Chân nhân luyện hạt gieo trồng Tuy ngồi một chỗ hanh thông đất trời Nho, y, lý, đạo đời chăng chớ Toán, bốc càng rạng rỡ Thái san Thầy xem khí tượng thiên văn Lời ngay cặn kẽ chứa chan mấy hồi Hàng chục pho trau dồi kiến thức Sách Đan Khê y học vẹn tuyền Có câu “y bát chân truyền“ Anh em kết nghĩa đào viên kém gì? Lời thầy dạy khắc ghi lòng dạ Ngư, tiều đành từ dã ra về Nhập Môn đưa khỏi Liễu Khê Tình huynh nghĩa đệ dãi dề chia ly Thác nước chảy ầm ỳ vội vã Nắng ban mai vách đá bồn chồn Ngư, Tiều quẩy gánh đi luôn Ngoảnh đi than thở lệ tuôn đôi dòng Búa rìu mục long đong ngày tháng Tấm lưới sờn cay đắng xót xa Quan san muôn dặm sơn hà Non xanh nước biếc bao la đất trời Nào ai hay nửa đời đổi bước Bỏ rừng xanh sông nước theo nghề Y khoa nay đã nguyện thề Cứu nhân độ thế đồng quê thị thành Bậc đại phu xứng danh nho sĩ Trọn hai trăng kiên nghị dẻo dai Ngày thương tháng nhớ u hoài Xa nhà nặng gánh đôi vai nhọc nhằn Biết bao nhiêu gian nan vất vả Đặng gắng mình mài đá thành kim Tiểu nhi khỏi mất công tìm Lương y từ thiện trái tim mẹ hiền Ngày mai nhé dời thuyền ngư phủ Gánh hành trang đầy đủ kim châm Xọt đeo hái thuốc âm thầm Quẳng dìu xó bếp thành tâm cứu người Cả hai ngã nói cười rôm rả Nửa ngày đi bóng ngả quang âm Mừng thay ra khỏi Y lâm Bỗng đâu chớp giật ầm ầm sấm vang Mây đen tới vội vàng tìm chỗ Gió mưa phun đây đó rậm rì Nát nhàu cây cỏ đường đi Vắng tanh dấu thỏ chim di lạc đàn Nhìn ngơ ngác ngút ngàn sơn cước Vái lâm quân chỉ bước chân đi Thấy ngay hang đá tức thì Dây leo chằng chịt đầm đìa hạt mưa. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 12.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 70 Thật khéo thay cũng vừa đủ chỗ Hai chàng bèn lọ mọ chui vào Giở ngay cơm nắm khi nào Nhập Môn gói sẵn nghẹn ngào sư huynh Đi mùa xuân nắng tình hoa bướm Mùa hạ về mưa đợm cỏ cây Ve sầu rả ríc vui vầy Cuốc kêu tu hú vượn bầy râm ran Gió hiu hắt bạt ngàn mai trúc Lòng xốn xang thúc giục đôi chân Thình lình trống đánh rất gần Giật mình há hốc quan quân tiến vào Cúi lom khom chào rào lấp ló Đuốc sáng chưng rõ tỏ mặt người Cờ vuông lỗ bộ đứng coi Cánh chuồn nghiêng ngó xăm soi lạ lùng Một quan lớn ung dung chễm trệ Kiệu lọng vàng thị vệ xếp hàng Giáo gươm hùng hổ nghênh ngang Ngư Tiều khép nép ngỡ ngàng bước ra Có năm ngã kêu la thảm thiết Cổ đeo gông dây xiết cổ tay Oan khiên chen chúc một bầy Công đường thảm thiết đơn đầy một mâm Quân áp giải ầm ầm sát khí Hương án xông chuẩn bị đăng đàn Trước sân kìm, kẹp, roi, giàn Lệnh truyền sĩ tốt phạm nhân bắt quỳ Trống nổi lên quân uy soi mói Lão Đậu kia bị trói dẫn vào Hỏi làm thày thuốc khi nào? Đậu khoa phương pháp âm hao tỏ tường Chữa trị bậy bất thường táo tợn Chết nhiều người gốc ngọn cung khai Đậu rằng vốn chẳng học ai Nhờ cha thuốc trái mấy bài để cho Ba ngày trái phì phò mới phát Dùng thang thanh lường gạt mát rồi Sáu ngày trái mọc than ôi Thần công tán hốt cố bồi cho xong Bệnh thành nặng chẳng mong chữa khỏi Nghề lang băm lại giỏi mánh mung Chín ngày trái chẳng quán nung Tranh nhau cố hốt lộc nhung thang thầy Mười hai ngày đóng dày mưng mủ Nội thiên kim thác ủ bệnh ngay Thật ra chẳng rõ thang này Phép cha thanh biểu độc quay quắt hoài Quá kỳ trái dằng dai nóng sốt Phép cha truyền cứ hốt thang bừa Dửng dưng kinh sách xa xưa Đậu sang mấy bữa hay chưa bất kỳ *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 13.5.2020 Lu Hà