Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 51 Cũng lắm chước trừ tà diệt quái Đạo của ta vạn đại thánh hiền Tôn sư sách thuốc khảo biên Sử gia hoạt pháp lưu truyền tới nay Mầu nhiệm thay chẳng hay chấp nhất Yêu thuật tà thành thật lắc đầu Được thời độc sĩ theo sau Múa may phù phép đua nhau lừa người Dân mê muội lẽ trời chẳng tỏ Sợ chết thời lọ mọ vời sư Phong tà dịch hạch như từ Hố sâu lầm lạc thói hư mặc đời Dù đau đớn tả tơi thân xác Phép bí tung tự tác dị đoan Oan gia trái chủ lăng loàn Nhà chùa hốt của mưu toan hại người Sư hổ mang ăn chơi đàng điếm Vãi dâm ô mưu chiếm nhang đèn Chính tà ngụy biện bao phen Vô thần giả mạo bon chen tượng thờ Phép y trị nào mơ mộng hão Khoa nội thày chỉ bảo thuốc thường Bệnh tà áp dụng biến phương Cao thâm học thuật tìm đường cứu nguy Lẽ tự nhiên xét suy tạo vật Nghĩa trọng coi chân thật khinh tài Bệnh sinh nội tiết trong ngoài Học cho tường tận trừ loài yêu tinh Hương trừ quái quỷ kinh gõ mõ Hồ ly tinh sợ chó săn đi Mồ hoang mả dại chim di Xà yêu sợ tỏi lạị nghi hùng hoàng Thổi bồ kết xênh xang lỗ mũi Tưởng hắt hơi lụi cụi rồi thông Cải cay lệ chảy long tong Hoa tiêu tắc khí cầu mong hơi rời Nước đái rùa chữa người cấm khẩu Xương chuột cho cô cậu mọc răng Cây kim từ thạch dính nhằng Biết ngay hạt cải lăng xăng chốn nào? Có hổ phách lẽ nào chẳng thấy Mật rái kia nước ấy rẽ liền Keo loan xương nối đáng tiền Tiết đông nhờ cậy ngó sen đó mà Bỏ xác cua sơn ta tan rữa Thanh quế kia vì nhựa nấu tan Ngọc mềm mỡ cóc rã tàn Như bùn trong bát ngút ngàn nghiệm suy Kể sơ qua cũng tùy nhận thức Hết thảy đều đã được chứng minh Hết lòng cứu chữa bệnh tình Lương y từ mẫu chúng sinh đạo hành. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 28.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 52 Tiều mới hỏi trời sanh đất dưỡng Bốn dạng thường sinh trưởng mà ra Trăm sông nghìn núi bao la Xin nghe các chứng đàn bà có thai Tháng kinh can thái lai tĩnh dưỡng Hai tháng sau ba tượng tâm bào Thứ tư kinh tiểu trường trao Năm thì tỳ dưỡng sáu vào vị hương Bảy kinh phế thông thường tháng tám Chín tháng kinh thận dám nối liền Đủ ngày trọn tháng dĩ nhiên Mười kinh, mười tháng về miền bàng quang Nhóm xung nhâm âm dương thủ túc Cùng tam tiêu phủ phục dưỡng thai Con người đệ nhất trần ai Lời hay Sào thị có bài sách biên Tâm làm mẫu chính chuyên tạng chủ Lấy tam tiêu ấy phủ thênh thang Tổng quan thai gốc máu sang Máu nhờ tâm chủ giữ đàng mạch kinh Mạch máu ấy nuôi hình thai nghén Thủ thiếu âm chẳng chẹn bởi tâm Thai nhi phát triển tới tầm Chia đâu phiên thứ giáng cầm chủ trương Trong kinh lạc âm dương suy ngẫm Đắp đổi nhau dựa dẫm năm hành Có ông Phùng thị nổi danh Gốc theo kinh chỉ sử xanh luận bàn Bậc lương y chứa chan nhân loại Tay nghề hay chẳng ngại thấp cao Kinh truyền:”tâm với tâm bào” Thật ra hai mạch lại vào một nơi Ta cũng biết máu hơi kinh lạc Đủ mười hai nào khác trong mình Có thai tiếp đến bế kinh Vần xoay nhóm máu đồng tình nuôi thai Luận bào thai mấy ai Sào thị Tuy vắn dài Phùng thị khác nhau Đọc nhiều thông tuệ cái đầu Lời nào xác đáng nhu cầu sáng soi Ngư cho rằng giống nòi đã đặng Nuôi thai nhi mang nặng đẻ đau Vuông tròn sinh đẻ theo sau Cớ sao lắm kẻ thai nhau chẳng lành? Năm ba tháng chẳng thành con cái Nghiệp tạo nên oan trái gì đây Môn buồn phúc đức vơi đầy Thai hư ngày tháng hao gầy phụ nhân Theo Thuần Khôn tinh thần chao đảo Chẳng khiêng khem chao đảo lo âu Máu hơi chẳng đủ dãi dầu Xung nhâm mạch yếu cơ cầu mặc nhiên. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 28.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 53 Thai nguyên gốc chẳng bền thể dục Bệnh hoạn nhiều tứ túc khó thành Trách ai chửa nghén chẳng lành Liền mang tiểu sản mong manh nơi mình Bán sản nên điêu linh ảm đạm Trái non kia u ám trên cành Xầm xì đức hạnh tiết danh Gốc cây lỏng lẻo trái đành rụng non Máu hơi thiếu đẻ con ốm yếu Thân hao gày thất thểu ra gì? Vướng vòng nhục dục sân si Ăn chơi bất kể vật chi dữ lành Phường trí trá hư danh bất hảo Thuốc lang băm lếu láo bất kinh Xót xa thế thái nhân tình Lầm mang độc vị hại tinh huyết người Thợ trời giúp tình đời đây đó Lời cấm xưa chớ có coi thường Nguyên trùng miêu đỉa bất lương Có thai nên tránh nhiễu nhương mặc dầu Thật nguy hiểm ô đầu, phụ tử Với thiên hùng ba đậu thủy ngân Ngô công dã cát sát nhân Tam lăng ngưu tất tâm thần đáng thương Đại giả thạch xạ hương đại kích Nguyên hoa kia kình địch thư hoàng Nha tiêu xà thuế tiêu mang Mẫu đơn tạo giác quế càng độc tăng Đừng bán hạ lăng nhăng thông thảo Can tất còn giải trảo mai cua Than ôi bồ kết chu sa Đào nhân rắn rết chẳng tha mạng người Gốc cỏ tranh ma chơi hồn quỷ Mao căn kia bi lụy hòe hoa Khiên ngưu địa đảm nhạt nhòa Thân tàn ma dại mù lòa thuốc thang Tiều chắp tay phải càng thận trọng Người mang thai phận mỏng cánh chuồn Giữ gìn thể xác linh hồn Nội tâm tĩnh tại nỗi buồn tiêu tan Còn những bệnh băng hàn thân giá Thuốc nóng càng triệt phá thai nhi Ta còn có biện pháp gì? Thai tiền hợp dụng duy trì dài lâu Thuốc trợ thai nhiệm mầu công hiệu Môn cho rằng thông hiểu chước y Nếu như biến chứng bất kỳ Chớ quen thường trị phải suy cho cùng Như đau lạnh tử cung nhức nhối Quế phụ càng bối rối can khương Bàng quang máu chứa bất thường Đại hoàng khỏi hốt thoát tường đào nhân *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 29.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 54 Phương thuốc trị tâm thân ưng chịu Chỗ đau nào mắc míu tới thai? Xưa nay y biến kỳ tài Thuận theo thiên ý vạn loài muôn phương Chương thai dựng bất thường tắc nghẽn Cứu chữa người thai nghén tận tình Sách ghi gọi chứng: “ ám kinh“ May không nhơ uế tháng mình mang thai Có người bảo: “cấu thai” là vậy Nghén rồi kinh nguyệt thấy tuôn ra Máu ra thai nghén chẳng sa Có tên “thai lậu” gọi là huyết dư Có người nghén năm dư ấy chớ Thai nằm yên dễ sợ mới sinh Bởi vì khí huyết trong mình Gần mười tám tháng bụng phình chửa to Thật lạ lùng đáng lo ngại lắm Chứng “quỷ thai” thê thảm buồn thay “Trưng hà” “bĩ khối” lắt lay Nhớt nhau hơi huyết đọa đày như thai Máu đầy chứa ngày dài hư thiệt Thật kinh hoàng “súc huyết”tang thương Than ôi! Bệnh biến khôn lường Giống thai quái đản dị thường xiết bao Bốn mươi chín tuổi cao thiên quý Đã dứt đường tục lụy mang thai Vợ chàng Tịnh Phổ là ai? Đã hơn sáu chục tuổi ngoài thai mang Bốn mươi chín tuổi nàng túy lúy Mới vu quy thiên quý thông thường Tô Khanh gái rượu phấn hồng Mới mười hai tuổi lấy chồng có thai Coi hai chuyện biên ngoài dấu sử Đừng đắn đo phận sự thế thôi Biết bao kinh nghiệm trau dồi Liệu đường biến hiện để rồi kê đơn Luận y học gặp cơn tai biến Phải xét suy biểu hiện trong ngoài Nguyên nhân động đến nội thai An lòng thân chủ nguôi ngoai mấy bài Tiều quả quyết trước thai chẩn mạch Thật rõ ràng dám trách chi ai Xưa nay nhắc nhở mãi hoài Gái thì bên hữu tả trai đã đành Tả di hoạt tật sanh trai đó Gái hữu di hoạt có thấy không Chỉ e rắc rối chất chồng Thai đôi bụng chửa má hồng phôi phai Coi mạch chủ hai tay sáu bộ Môn bảo rằng ba bộ mạch đi Máy trời tạo hóa vân vi Âm dương hai chữ thịnh suy khác hình. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 30.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 55 Gốc tạng phủ thần linh soi sáng Thuận ngũ hành năm tháng tạo ra Vần xoay trong cõi người ta Vợ chồng con cái mẹ cha an lành Ngôi chồng vợ tung hoành thuận nghịch Mẹ cùng con cảm kích dựng xây Bộ âm tạo mạch dương vầy Chồng thừa ngôi vợ bấy chầy vào trong Lại như vợ mở cung cửa lớn Lấn ngôi chồng bộn rộn ngóng trông Bộ dương để mạch âm thông Thong dong tới bậc minh công là hoành Thừa ngôi mẹ nghịch danh con ngỏ Mẹ thừa con thuận ở tình nhau Ung dung bắt mạch xoát cầu Máy âm dương nhóm biết đầu gái trai Ba bộ dương mạch ai đó thịnh Là con trai dự tính chẳng sai Ba âm mạch thịnh gái thai Trai đôi tả đới tung hoài mãi thôi Hữu đới hoành gái đôi hóa dịch Thành trai ba mạch nghịch tả dương Gái ba mạch thuận là thường Hữu âm hình tướng vấn vương truyền lòng Huyền, khẩn, lao, hoạt, cường yên vị Chết rõ ràng trầm tế vân vi Cao tay mạch tượng lỗi gì Biết ngay thai yểu còn nghi ngại gì? Bụng bà chửa thai nhi nằm đó Mấy chứng thai xưa có khảo biên Sách ghi tử giản tử huyền Than ôi! Tử thũng, tử phiền, tử lâm Bao chứng tử hoài nhâm tử khí Hơi nghén gây tỳ vị đau trong Tiều rằng chứng giản là phong Mong manh mạng sống đau lòng nhân gian Đàm nhiều chứng nguy nan tà ác Khí hư ra xơ xác âm hao Hai tay co quắp đau bào Lậu thai bụng lớn máu trào túa ra Thai lậu động khác xa là chứng Thai bình thường mẹ nựng con ta Tình thương mẫu tử thiết tha Động là khí bách lậu là nhiệt thương Lời thai luận biến thường nhiệt thấp Nội thương bàn hô hấp thấy ai Khử tà mới giữ được thai Phong đàm thuốc ấy đúng loài trị an Chứng huyễn hoặc mê man bất tỉnh Phải lo toan định tính rõ ràng Làm sao cho hết mơ màng Nghén chưa đủ số bụng nàng đớn đau *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 30.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 56 Bảy tám tháng sau thì chuyển bụng Nào biết đâu như chứng giả đò Thày lang bốc thuốc thăm dò Khù khờ phép tắc lò mò linh tinh Nửa bốc thuốc thôi sinh ngần ngại Tháng còn non sợ hại cả hai Nửa thời hốt thuốc an thai Còn thừa ngày tháng hoa khai lỗi kỳ Tiếng sao khỏi lang y họa rước Thuốc nào hay xin được lưu truyền Nhập Môn quan sát trước tiên Luận y thai nghén sách biên tỏ tường Mười tháng chửa thông thường thai lệ Cho đến ngày cửa sẽ mở ra Tử cung co thắt rên la Lưng đau nhức nhối mắt hoa tối trời Như dưa chín cuống rời khỏi gốc Nằm đơ ra hồng hộc cạn dòng Trái thơm quả ngọt long đong Gọi là chính sản cầu mong an lành Bảy tám tháng mong manh yếu ớt Chứng lộng thai xanh nhợt đuối hơi Gọi là thí nguyệt nhặt lơi Bụng đau xâm xỉa tả tơi mặt mày Kinh nghiệm cho xưa nay khuyên bảo Con nằm yên mẹ dạo bước chơi Vẫn chưa đủ tháng chẳng rời Mẹ yên tâm nhé nụ cười hân hoan Trời sinh voi chứa chan ngọn cỏ Luật tự nhiên xin chớ lo phiền Hỏi tra ngày tháng trước tiên Ly kinh một mạch coi liền là hay Chứng lộng thai lắt lay chính sản Thật hiểm nguy đừng dạn dĩ ngay Thôi sinh phạm lỗi tắt ngày Khai hoa chẳng đợi quắt quay kiếp người Hại thế nhân hại đời thày nữa Kê đơn liều chẳng chữa người ta Hãy coi cái kén trứng gà Đủ ngày mỏ khoét vỏ ra con này Thuốc an thai dễ hay gây nạn Đẻ đến ngày thày cản con ra Nỗi niềm mong đợi thiết tha Lang băm quậy phá cảnh nhà nát tan Lộng thai chính sản, bàn tay nắm Bậc lương y đâu dám kê liều Cứu người cũng có lắm chiêu Ly kinh mạch quyết bao điều tử sinh Một hơi sáu lần ly kinh đến Hoạt tế trầm mạch chẹn cũng đành Nửa đêm đau dữ sắp sanh Ngày mai sẽ thấy sáng danh Chúa trời. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 1.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 57 Tiều mới hỏi chửa thời rồi đẻ Bởi cớ sao còn kẻ oán than Nhân sinh sao lắm gian nan Tự nhiên xúc vật bình an hơn người Môn cho rằng cảnh đời lỗi đạo Chẳng kiêng dè bợm trạo sinh nhai Đàn bà vô ý mang thai Trách trời oán đất đơn sai tại mình Thuốc phụ khoa thánh minh căn dặn Phải tuân theo đều đặn thường xuyên Bảy điều sư tổ từng khuyên Giữ thân né tránh sầu miên nhọc nhằn Chớ xông pha săn văn công việc Khí huyết tăng bày biện linh tinh Hai là tới trước kỳ sinh Dăm ba ngày sẽ thình lình trở thai Điều thứ ba ép nài ăn uống Khiến thai nhi to tướng béo phì Thứ tư dâm dục tù tì Chăn loan gối phụng tỉ ti ái tình Thành lao lực đốt tinh phá khí Bào khô khan dị nghị xa gần Mặc cho âm hộ rộng dần Lăng xăng thăm hỏi gây phần loạn sinh Thứ năm ngại sợ mình thai động Chữ ưu nghi lại lộng vào thân Khiến ai vấn bốc tần ngần Sản hoàng hai chữ bần thần não nhân Nghe mụ đỡ rặn khan vội vã Khiến con ra ngược cả bụng cương Sáu là nguy hại nội thương Phều phào ốm yếu mình thường thiếu hơi Nguồn khô cạn rặn hơi quá sớm Con khó ra lại chớm máu tươi Bảy phần phận sự chơi vơi Sách y ghi chép tới nơi tận tình Cõi nhân gian tử sinh hợp lẽ Theo luật trời nặng nhẹ phân minh Truyền thừa xem pháp tướng tinh Mặt chừng là mẹ lưỡi hình dáng con Mặt tươi tắn vuông tròn lưỡi thắm Lưỡi thâm khô ảm đạm mặt xanh Giá băng mẹ chết thôi đành Lưỡi xanh mặt đỏ con thành hồn ma Mặt xanh lưỡi đỏ là mẹ sống Còn lưỡi xanh mặt đỏ giống nòi tiêu Hài nhi thất thểu phiêu diêu Hồn mây thê thảm bóng chiều tịch dương Phép y lý mạch tường sáng tỏ Phương pháp nào chỉ rõ cho hay Tiều rằng mạng sống trong tay Ngàn cân sợi tóc gió bay lá vàng *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 2.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 58 Đường Nhập Môn vẻ vang sản hậu Một khoa riêng trần cấu bấy nay Tổ sư có lắm vị hay Chứng nào thuốc ấy uống ngay khỏi liền Nghe tâm pháp thày truyền hậu thế Nguyên ba điều ta kể ra đây Một là máu trống hỏa đầy Cuồng kinh nóng táo thân gầy xác xơ Chứng bại huyết bơ phờ mệt nhọc Vọng hành tăng kêu khóc đầu đau Chân tay bụng cứng bám nhau Ăn nhiều uống lắm trước sau tới cùng Hay nôn mửa ba xung ba cấp Chiếu chăn thành hầm hập rên la Xung vì bại huyết mà ra Xung tâm, xung phế thật là thảm thương Cấp mới đẻ thê lương phiền não Thổ tả càng nhệu nhạo mùi hôi Tổ xưa dùng thuốc chữa rồi Có ba việc cấm than ôi tạc lòng Thang phật thủ xin mong đừng bốc Vị xuyên khung cực độc chẳng lành Xuyên khung tán khí đã đành Lại hay phát hãn rắp ranh hư nhèm Thang tứ vật hay kèm trong thuốc Địa hoàng quen thược dược dụng sinh Chẳng hiềm sống lạnh máu kinh Ngặt thời phải dụng chín mình chế đi Khí huyết suy sau khi chửa đẻ Thược dược chua lạnh sẻ tửu sao Cấm dùng thang tiểu sài hồ Hoàng cầm tính mát ngăn hồ huyết đi Bệnh dày vò tật di dơ dáy Lời huấn kinh thày dạy chớ quên Mấy mùi dược tính chẳng hiền Chớ cho xâm nhập vào miền tam tiêu Biểu chứng phạm bao điều giả tượng Có rất nhiều hình tướng y thư Xưa nay có mấy tôn sư Trị khoa hậu sản như từ Đan Khê Dòng Chu tử hành nghề tỏ rõ Đẻ về sau khá bổ máu hơi Gốc làm mạch chủ thảnh thơi Quản chi tạp chứng về nơi ngọn ngành Thật cao minh ngọn xanh bền gốc Bá thuật cùng thuốc bốc thiên uyên Ngợi khen mạch quyết lưu truyền Bao người sản hậu nhân duyên mất còn Ngư lại hỏi trẻ con lẫm chẫm Một hai ba tuổi nhẩm chưa đầy Đau thời coi hổ khẩu tay Cho hay thực chỉ vằn bày chứng cai. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 2.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 59 Phép coi gái hữu trai bên tả Trỏ lóng ba ngón ngả ba quan Phong quan lóng gốc thế gian Lóng nhì ải khí ba bàn mệnh quan Vằn xanh ngang gió can quá mức Bỗng đỏ vằn nóng nực ran mình Vằn xanh đỏ loạn chứng kinh Vằn hồng bợt nhạt ấm mình bụng đau Vằn lóng gốc trị mau khỏi bệnh Phải nhanh tay chớ chểnh mảng lâu Vằn qua ngón giữa chuyển mầu Hơi tà chạy đến càng rẫu rĩ than Bắn lên trảo, giáp nan giải lắm Chứng nguy này thê thảm hài nhi Vằn đen như mực loạn bì Lấn vào ba ải đông y hoảng rồi Biết chừng ấy mà thôi chẳng rõ Còn cách nào đâu đó bệnh tình Môn rằng: Con trẻ mới sinh Máu hơi còn yếu mạch hình khó coi Giáp năm cũng có người mắc chứng Thật đớn đau đi đứng hay ngồi Xem ra bệnh đã nặng rồi Gân xương mạch lạc lần hồi mở ra Kỳ Nhân Sư nhi khoa giỏi trị Khí sắc coi vị trí mạch kinh Tướng xem trên huyệt Tình minh Thấy trong tạng phủ bệnh tình chữa ngay Xem ngón tay bấy nay biếng nhác Thày rờ xem mạch Sác có không Sác cùng chẳng sác coi ròng Sác cao bốc nhiệt sác không khí hàn Một ngón tay thong dong ba mạch Hơi thở đều tách bạch điều hòa Hai lần là thoát chẳng ngoa Ba lần là thốt nhạt nhòa mồ hôi Bốn lần tổn than ôi năm đó Gọi là hư chăng chớ vấn vương Sáu lần không bệnh bình thường Bảy lần bệnh nhẹ tám đương cận cài Từ chín đến mười hai sẽ chết Phép coi này nhất thiết tinh thông Ngư bàn sách ấy thuần dương Về phần trẻ nhỏ bệnh thường nhiệt dâm Tiểu nhi ca tình thâm nòi giống Bệnh trẻ con kinh động thống phong Tich đờm cổ họng không thông Cam sài giun sán mênh mông vô cùng Sao kể hết chập chùng biển cả Kiếp con người vàng đá phôi phai Khen cho con tạo cắm cài Âm dương kín chữ trần ai muôn hình. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 3.5.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 60 Ngư suy ngẫm âm tinh thấu đặng Chữ âm này để tặng tiểu nhi Chờ ngày thiên quý tới kỳ Tinh thông sáng tỏ đền nghì âm dương Sách ghi rõ thông thường bổ dưỡng Đọc kỹ thì thuận nhượng thơ ngây Tính âm luận ngữ chưa đầy Trẻ con người lớn bệnh gây chẳng đồng Vốn chẳng hại bên trong tình bảy Sáu dâm kia hết thảy luận tà Một mai ngoại cảm chẳng qua Cam, kinh, thổ, tả, tích hòa trường đông Thời hàn cảm thử phong tích nhiệt Đậu chẩn sang cấp thiết đơn ban Cản ngăn tạp bệnh lan tràn Có mười lăm chứng nguy nan rập rình Ta đơn cử tử sinh cụ thể Mạch chẩn chờ xin kể ra đây Trên mi mắt nổi vằn dây Đỏ lừ chạy suốt lấp đầy con ngươi Sưng mỏ ác phù nơi dưới ngực Kể cả khi đau nhức phập phồng Mũi khô đen sạm bụng gồng Gân xanh chằng chịt lộn tròng mắt lên Nhìn không chuyển thường xuyên đờ đẫn Móng sạm đen chen lấn chân tay Đột nhiên mất tiếng ai hay Lưỡi thè ngoài miệng nhớt nhày chảy ra Trẻ nghiến răng kêu la hay cắn Thở phì phò ỉa rặn phân chim Ngáp như cá, bỗng im lìm Giun thò miệng mũi bóng chìm hồn ma Chết tức tưởi mẹ cha bất lực Thày thuốc càng ráng sức cứu người Than ôi, mười đứa chết mười Bệnh này khó chữa cảnh đời thê lương Mười sáu chứng khác thường khinh trọng Bệnh chứng này trông ngóng nhiều phương Chẳng qua hư thực hai đường Chứng hư chứng thực từng chương rạch ròi Chẳng sai ngoa hẳn hoi công luận Mười bệnh thường lấn bấn mãi hoài Chín hư một thực gái trai Ví như đầu tháng dằng dai vẫn còn Khắp muôn nơi trăng non ló rạng Mở lòng gương thực trạng chưa ra Dạng tròn vành vạch sơn hà Bổ nhiều, tả ít, theo tà thực hư Thuốc nhi khoa nhẫn từ sư tổ Để ngày nay chứng tỏ mọi đằng Cao thâm y thuật thung thăng Cảm ơn liệt vị cung hằng sáng soi *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 4.5.2020 Lu Hà