Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 31 Tiều than thở xuôi dòng thời cuộc Cánh chim di thân thuộc giống nòi Phận bèo nhân phẩm trọng coi Đại phu bốc thuốc mặn mòi quê hương Giúp mai táng thê lương cố quốc Vợ chôn chồng bạc phước hầu non Bạn bè làng xóm héo hon Chia phần tang tóc đàn con đói nghèo Biết bao nhiêu gian neo cảnh ngộ Án dân oan thống khổ phũ phàng Ngẫm câu: ” xuất tội hoạt hàng” Ra tay cứu nạn mọi đàng lợi sinh Hận ngút trời điêu linh xã hội Hôn quân kia tội lỗi gây ra Triều đình hủ bại quan nha Cường hào ác bá sơn hà nhượng Kim Đất U, Yên đắm chìm năm tháng Chúa Liêu kia trác táng điêu ngoa Dân đen giọt lệ nhạt nhòa Tấn vương quỳ mọp thềm hoa tiệc tùng Nghề thày thuốc hang cùng ngõ hẻm Chữa ngọng đui chẳng kém tiền nhân Nhân Sư nổi tiếng xa gần Tinh thông y thuật muôn dân cậy nhờ Câu” vi thiện” bùn nhơ chẳng ngại Khắc bia son quan tái gốc trời Đạo con hiếu thuận muôn nơi Thảo nhờ cha mẹ tình người vấn vương Thầy Tăng Tử yêu thương phụ mẫu Học Chu Công dấu chú mọi đằng Noi gương Văn Vũ Thành Thang Sớm khuya thăm hỏi lầu trang mặn mà Học họ Ngu gian tà né tránh Chuyện trăm nhà hiển hách biết bao Tiếng thơm công đức dồi dào Con lành cháu thảo tự hào tổ tông Hai mươi bốn thảo trồng gieo cấy Lấy âm công nhờ cậy gốc nho Sách tra Vĩnh loại nhiều pho Thể nhân vị lục học trò anh minh Ngư hỏi việc bất bình chế độ Bầy quan tham quốc khố chia nhau Giả vờ từ thiện làm màu Cúng tiên thờ Phật cửa sau lạy tiền Xây chùa to đảo điên miếu mạo Khói nhang đèn lếu láo ê a Làm chay hát bội thí ra Oan gia trái chủ vịt gà đầu heo Nhập Môn cười chó mèo xương xẩu Bầy xướng ca cánh hẩu dễ hư So câu: “ tích thiện hữu dư” Cho vay một vốn lợi từ mười phân. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 11.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 32 Bầy con buôn chiếm phần lợi lạc Đám nhà giàu kiếm chác đánh hơi Đất đai hoàng tộc khắp nơi Vương tôn công tử ăn chơi điếm đàng Dân tứ xứ xóm làng tàn tạ Lành có đâu mà trả dữ đền Màn trời chiếu đất đôi bên Đường dài cát bụi chẳng nên trách trời Đoàn hành khất tả tơi thảm thiết Lê gót chân chẳng biết đi đâu Nhớ câu:“ thiện ác đáo đầu Nổi trôi vận nước bể dâu đoạn trường Am Bảo Dưỡng khách thường lai vãng Rừng lâm y ló rạng sương mai Ngậm ngùi nghĩ chuyện khứ lai Tinh thông y thuật hương lài thoảng bay Bậc đại phu lòng ngay dạ thẳng Đạo cương thường quyết chẳng phụ ai Nỗi niềm day dứt nguôi ngoai Vợ bìu con rín u hoài khổ đau Nơi cắt rốn chôn rau tang tóc Quê hương mình lăn lóc thê lương Giặc còn dày xéo nhiễu nhương Gian thần lũng đoạn khuyển dương đọa đầy Hãy ở lại nơi đây ẩn dật Nghề nghiệp hay chân thật đạo đời Khôn ngoan phải biết thức thời Lương y từ mẫu thương người lầm than Phường lục tặc dã man cướp đoạt Theo luật rừng sao thoát lưới trời Tích dần nghiệp chướng cho đời Có vay có trả rạch ròi xưa nay Hai ngươi chịu đắng cay phiền não Cảnh gia đình chao đảo bấy lâu Nắng mưa tầm tã trên đầu Tiều phu ngư phủ đĩa dầu hư hao Mộng Thế Triền cùng Bào Tử Phược Cảnh khốn cùng thuận bước chân đi Thanh khâm trút gánh nam nhi Cưu mang nhân thế đền nghì phiếu mai Nuôi khí huyết dùi mài tinh tấn Lòng dục ngăn Tổ vấn thiên đầu Kỳ Hoàng tôi chúa hỏi nhau Thiên chân bàn luận nhiệm màu cẩm nang Tránh ăn bậy rõ ràng thấy gốc Bữa trà xong rượu thuốc thân tâm Người nào đàm hỏa hư âm Lời khuyên Nhự đạm phải tầm tra ngay Tham nhục dục lắt lay trước gió Mã thượng phong xin chớ coi thường Trâu gìa tuổi hạc thê lương Hồn xiêu phách lạc âm dương chia lìa. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 12.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 33 Lời thánh hiền khắc bia răn bảo Mộng hão huyền cải lão trường sinh Khuyên nhau đau ốm bệnh tình Dưỡng thông khí huyết tâm linh nào bằng Máu hơi đủ siêu thăng trời đất Luật tự nhiên mới thật sống dai Ô hay trong cõi trần ai Bao người đoản mệnh cũng loài vi nhân Tiều muốn hỏi khác phần thọ yểu? Bởi vì sao nên thiếu công bằng Hoặc là thiên quý sai chăng Nhập Môn lưỡng lự than rằng xưa nay Từ cổ kim sống ngay ở thật Tránh xa hoa dâm dật bê tha Thân tâm trong sạch thật thà Thất tình lục dục tránh xa ưu phiền Trọn hai chữ thiên niên tuổi hạc Học dưỡng sinh đạm bạc thanh cao Nội công khí lực dồi dào Tĩnh tâm an lạc xuân đào trổ hoa Giữ cân băng điều hòa thể trạng Tránh ăn nhiều phủ tạng mỡ tăng No say lửa dục càng hăng Tổn hao sức lực bệnh càng phát ra Trai ba mươi gật gà loạng choạng Bệnh sa đì khệnh khạng bước chân Xanh xao vàng võ thất thần Gan suy thận trụy xương gân rã rời Các ngươi hãy nghe lời ta nói Con gái thì bảy tuổi răng thay Tóc mây xanh rậm thấy ngay Hương thơm phảng phất mỗi ngày dần tăng Thiên quý chí rõ ràng kinh nguyệt Mười bốn xuân là biết xung nhâm Mạch thông rãn nở khí âm Hai mươi mốt thận tới tầm thanh minh Răng hàm đủ trong mình sung sức Hai tám xuân khí lực đều sung Tóc đen mượt rõ hình dung Ba mươi lăm tuổi sượng sùng phì ra Tới bốn hai dần dà ngấn mặt Bốn chín thì khóa chặt xung nhâm Mạch hư tổn hại khí âm Đường kinh tắc nghẽn tái thâm đồi mồi Thiên quý kiệt hỡi ôi phận gái Ngoài năm mươi tê dại quan san Còn đâu sinh đẻ chứa chan Hồi xuân lửa dục nồng nàn dầu sôi Trai tám tuổi thận bồi răng tóc Mười sáu thì sức vóc mới sung Biết thiên quý chí lên cùng Tinh đầy thông mạch anh hùng là đây. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 14.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 34 Hai bảy tuổi tóc dày răng cứng Ba mươi hai gân vững lạ kỳ Bốn mươi thì thận mới suy Tóc răng đã mỏi tới kỳ da thô Ngao ngán thay ô hô bốn tám Năm sáu thì da nhám xương ròn Sáu tư tạng phủ mỏi mòn Tuổi thiên quý kiệt héo hon lạnh lùng Bởi đường đời cùng chung lối định Trai gái thường vẫn tính xưa nay Nhân sinh bảo dưỡng là may Ngoài tuần thiên quý còn bầy trẻ thơ Tham tửu sắc thờ ơ sức khỏe Thiên quý còn bao kẻ tàn phai Biết mình nào có mấy ai Dưỡng sinh hai chữ dẻo dai lâu bền Cũng lắm kẻ tu tiên mây gió Môn cho rằng đây đó xưa nay Có vua Hoàng Đế mê say Thuật truyền nhân thế sau này sai ngoa Các đạo sĩ đời sau phân nhánh Tà thuật dùng né tránh chân nhân Theo ta quy thuận an phần Nhân tình thế thái tâm thân ý trời Như Vương Bao người đời ca ngợi Đường chính theo vạch lối báu cho Mặc ai nghiêng ngửa duỗi co Bằng sao Bành Tổ xây lò hóa công Phái bàng môn gieo trồng tả đạo Họ Kiều, Tùng cầu đảo luyện hình Thổ hà hơi hít linh tinh Trau mình nào phải đọc kinh Hoàng đình Từ lân lý lòng mình chính trực Bậc cao nhân thao thức anh minh Bách gia chư tử luận bình Cần chi phải đọc nhiều kinh âm phù Cũng xuất gia đường tu lắt léo Phật hay tiên giữ nẻo tâm thân Thuận theo bảo dưỡng tinh thần Nở hoa giác ngộ thế nhân bao đời Đạo Dẫn than lòng người đen trắng Thân bọt bèo cay đắng xót xa Đồng tiền nén bạc sinh ra Tai ương nghiệp chướng cảnh nhà lầm than Câu phụ tử quân thần nho sĩ Đạo thánh hiền nghi kỵ lẫn nhau Tu mi nam tử vàng thau Kỷ cương tàn lụi nhạt màu nước non Bao kẻ sĩ héo hon lòng dạ Chữ trung thần sắt đá đâu còn Phận hèn giữ đạo tôi con Hôn quân bạo chúa hao mòn sức dân. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 14.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 35 Giặc nội xâm mưu thâm kế hiểm Bầy hắc nô đàng điếm ăn chơi Gian thần ác bá khắp nơi Liên minh ma quỷ giống nòi kể chi Đạo Dẫn than tới thì mạt vận Bạn ta từng lận đận lầm than Bốn bề khói lửa điêu tàn Ngoại bang xâm lấn dã man nhục hình Còn tin ai triều đình đổ nát Thói sai nha sát phạt chẳng từ Cạn nguồn suối mát chân như Phật tiên quả đắng thiên tư cửa thiền Người thày thuốc triền miên sầu tưởng Treo cờ sao ba tượng trong tòa Tiều kêu đồ ấy lập lòa Tiên thiên bày biện nhạt nhòa làm chi? Ngư thắc mắc có gì khó hiểu Nhập Môn rằng bảng hiệu nhà ta Âý từ kinh dịch thảo ra Nửa trong y học bao la thần kỳ Môn trong quẻ Bào Hy có tám Tính toán thành Kiền Khảm Tốn Ly Tiếp theo Cẩn Chấn Khôn Đoài Tiên thiên một bức đồ khai muôn loài Coi phương hướng trần ai sinh hóa Tám quẻ gieo nhân quả xấu lành Âm dương đủ cả ngũ hành Đạo y kinh dịch tính danh rõ ràng Kiền tây bắc rồi sang đình Hợi Tuất lẻ loi chới với đi đâu Khảm phương chính bắc tương cầu Tý cung nhấp nhổm nhiệm mầu biết không Cấn đông bắc hanh thông Dần Sửu Chấn soán ngôi đương Mão phương đông Chân trời trải rộng mênh mông Tốn kia Thìn Tỵ cánh đồng đông nam Hướng chính nam nhăm nhăm đương Ngọ Ly cung này sáng tỏ chiều lam Khôn Mùi Thân phía tây nam Đoài đương ngôi Dậu lại nhằm tây phương Trong tám hướng âm dương suy xét Máy trời xây rõ nét năm hành Hậu thiên Ly Khảm tạo thành Cho hay khí huyết rõ rành chủ trương Ly hơi lửa thuộc dương khí bốc Khảm rõ ràng là nước máu âm Song mà Ly đứng bóng dâm Khảm cung đầy giữa thật cầm chân dương Biết hư thực âm dương biến hóa Hiểu chưa thông hậu quả khó lường Mong rằng y thuật tinh tường Nước đầy lửa trống tìm đường cứu nguy Cần hòa hợp phải tùy nước lửa Thế mạnh này chất chứa trong mình Yếu thời lửa nước bất minh Chưa thông kinh dịch thuận tình chước y. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 15.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 36 Tổ sư dạy Hiên Kỳ trước hết Quẻ Bào Hy phải thiệt tỏ tường Tiều phu hỏi tượng Minh Đường Là đồ khí hậu chủ chương lẽ gì? Môn trả lời hai nghì trên dưới Bức họa này vời vợi thiên tri Giống như soạn thảo kinh thi Người kia vật nọ tóm ghi lược đồ Vẽ mười vòng cùng phô một nhóm Khí hậu coi từng xóm ứng nhau Năm ngày một hậu bồ xâu Rõ ngay ba hậu bắt đầu tính coi Được một khí sáng soi tỏ dạng Hai khí thành một tháng kể ra Đất trời vận chuyển bao la Giáp mười hai tháng ấy là một niên Một năm tự thiên nhiên riêng biệt Có bốn mùa nhất thiết tạo nên Hai mươi bốn tiết theo liền Xây hai chục tám sao biên sách trời Ba mươi sáu cung thời xuân đến Đều nhịp nhàng sinh biến xoay vần Mỗi năm khí hậu tần ngần Mười vòng lớn nhỏ bần thần thủy chung Bởi việc đời tận cùng bác vật Mười vòng xoay trời đất một hồ Lặng lòng coi bức thư đồ Ba ngàn thế giới nhấp nhô thấy bờ Tuyệt tác thay hoang xơ cây cỏ Sách châm kim lại có ba hình Mỗi khi thập tử nhất sinh Cao minh y thuật gọi Minh Đường đồ Hình nằm sấp để đo kinh túc Huyệt dò tìm thành thục sau lưng Thái dương chớ có lừng khừng Một hình nằm ngửa coi chừng Dương minh Còn hình ngồi đinh ninh một mé Túc thiếu dương rành rẽ hai bên Ba hình lập được một nền Ba trăm sáu chục năm tên tuyệt vời Coi kinh lạc tới nơi tới chốn Đồ Đường minh đủ trọn độ trời Một niên thủ túc ai ơi Ba âm liền với ngoài thời ba dương Mười hai kinh chia đường mấy lớp Có sau du sáu hợp thường châm Người nào đau đớn kinh âm Huyệt du chọc đúng thoát mầm tai ương Tam tiêu, mật, huyệt thường bọng đái Dạ dày kia với lại ruột gìa Ruột non gan thận trau tria Kinh dương thoát hiểm bên rìa rừng hoang *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 16.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 37 Kinh sáu phủ thênh thang ta đếm Bảy mươi hai huyệt chiếm tay chân Kinh âm năm tạng từng phần Sáu mươi lỗ huyệt cao nhân chia đều Sáu đối sáu sách nêu trên hết Thành thơ ca rõ thiệt âm dương Mười hai huyệt đạo tỏ tường Sáu bài khí huyết vẫn thường viết ra Phép châm cứu người ta ca ngợi Mười tám bài vời vợi sáng thông Huyệt kinh phải đọc thuộc lòng Dương kinh lục phủ xuôi dòng vinh du Tiều thán phục thiên thu vạn đại Ngư đồng tình phải trái phân minh Mười hai kinh nguyệt thuận tình Hơi dồn máu chạy nhân sinh muôn loài Luận khí huyết sáu bài hoan lạc Môn khen hay chẳng khác thánh ca Mỗi câu mỗi huyệt xem ra Bắt đầu từ phế chạy qua đại trường Xung phủ đến thiếu dương biết trước Mối theo đường hung ức ngón tay Thương dương cũng đến chỗ này Chạy lên trước mũi tên bày nghênh hương Khấp tủa xuống dưới đường ấn bạch Vị với tỳ tới nhánh ngón chân Lệ đoài xin chớ tần ngần Ai hay vú tả rào phần đại bao Ao tiểu trường vào ba tâm chủ Huyệt cực tuyền tột chỗ da xương Hữu ra ngón út đầu đường Thiếu xung thiếu trạch tả thông trong ngoài Phần thính cung ở tai bên tả Dài chí âm mới hạ bài tư Tình minh gốc mũi như từ Giữa bàn chân giữa xem như dũng tuyền Đến du phủ tả biên phủ huyệt Chiều trung xung khẩn thiết thiên trì Quan xung ngón cái đen sì Trúc ty huyệt ấy như di chặng này Y thuật cao can vầy sáu đảm Đồng tử ra gò má tả cầm Ngón chân út rõ khiếu âm Thẳng bên vú hữu âm thầm kỳ môn Vòng khí huyết đóng đồn răm rắp Mười hai kinh lạc khắp ngày đêm Trong ngoài chuyển vận êm đềm Rồi nhanh như ngựa hòa mềm xa đi. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 17.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 38 Sách y học nhân tri bách bộ Gía gương hình theo đó kê toa Ngư khen như gấm thêu hoa Nhớ lời Đạo Dẫn dạy ta rành rành Nguồn cội ấy sáng danh trời đất Phải dựa theo vẽ thật giống ta Đại huynh giảng lại rõ ra Máy trời trọn lọc trong ba hình người Từ cổ kim bao đời truyền thụ Mười can sinh chi hóa mười hai Nội kinh luận ngữ chẳng sai Âm dương tứ đại muôn loài hữu sinh Dần ứng phổi thơ minh đường đó Ruột già kia với mão đứng nhìn Dạ dày lại ứng với thìn Cho hay lá lách tỵ gìn giữ cho Mùi ruột non tim dò đường ngọ Bọng đái thân thận dậu màng tim Tuất đừng mải miết đi tìm Tam tiêu ứng hợi cánh chim hải hồ Tý với mật sửu vô gan đó Âm với dương thân có trẻ già Ngũ hành tuần tự phân chía Mười hai kinh lạc trau tria góp phần Nhiều khoa thuốc thế nhân liệu tính Tiều chưa rành minh định ra sao? Dẫn từng chỉ bảo khi nào Sơ qua mấy vị hư hao tháng ngày Học phải hành xưa nay kinh nghiệm Đường Nhập Môn màu nhiệm sách thày Kỳ Nhân Sư, vốn thẳng ngay Biết bao tinh túy hàng ngày truyền cho Đường dẫn kinh cần lo thang thuốc Cân từng ly mà bốc cho tường Bàng quan kinh túc thái dương Thuận theo kinh thủ tiểu trường đọc tên Đường cao bản dẫn lên khương hoạt Hoàng bá thì phải thoát chớ lầm Đừng quên kinh ấy thiếu âm Hợp thành túc thận thủ tâm hai phần Trong hoàng bá tế tân tri mẫu Khương hoạt coi thận dẫu đã chuyên Thiếu dương kinh hỏa biểu truyền Túc thành phủ đảm nối liền tam tiêu Vị xuyên kung là điều ghi nhớ Với sài hồ để trợ thanh bì Trị tiêu xuống dắt một khi Nhờ chàng túc quyết tới thì âm can Hai đàng kinh gian nan môn hỏa Thủ mệnh kia chuyển hóa thanh bì Sài hồ rễ thoát kinh đi Xuyên khung y lý nhâm nhi một đường. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 18.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 39 Kinh thủ đại đồ trường ăn chứa Dương minh hương vị ứá cát căn Thăng ma bạch chỉ dâng tràn Thạch cao lên xuống dịch toan dẫn truyền Thái âm kinh dĩ nhiên thủ phế Túc tỳ kia hai thể đường y Thăng ma bạch thược vào tỳ Thung đi cát cánh vân vy phế đình Vào bạch chỉ dẫn kinh các vị Nhận trong ngoài chứng chỉ khỏi lầm Ba dương rồi lại ba âm Sáu kinh dón lại chứng nhầm thì sao? Nhập Môn bệnh mới vào cảm cúm Sáu kinh kia co cụm rõ ràng Thái dương nóng huyết mê sàng Cứng đơ xương sống đau ngang ống quần Thiếu dương cũng phân vân nóng lạnh Phải coi chừng từ nách xuống hông Tai ù miệng đắng biết không? Dương minh khát cổ hơi nồng miệng hôi Mắt sưng tấy ôi thôi mũi đỏ Táo bón ngồi nhăn nhó khó tiêu Chẳng nằm từ sáng tới chiều Nhấp nha nhấp nhổm liêu xiêu hãn dầm Thấy nước vàng da ngâm ban mọc Vào ra càng khó nhọc đôi chân Thiếu âm họng lưỡi khô khan Rên la khát nước góc màn nằm co Quyết âm càng hung no gân giật Dái thụt vào bần bật lưỡi cong Nhăn nheo âm hộ co vòng Thái âm đau bụng lưng còng gối ôm Không ỉa được chồm hôm nhà xí Rách hậu môn tắc bí vô cùng Tái xanh thảm hại não nùng Ban ngày mê ngủ hãi hùng Phong Đô Để lâu ngày dồn xô đủ dạng Đường truyền kinh, phủ tạng chẳng tinh Mang câu “ dẫn khẩu nhập đình “ Làm sao tránh khỏi bệnh tình phát to Thoát sao khỏi vòng vo y học Bậc đại phu biết trước chăm lo Học y muốn khỏi tội to Lâm sàng triệu chứng phải dò căn nguyên Viết lời ca thày truyền bí quyết Kỳ Nhân Sư khẩn thiết yêu cầu Ta xin đọc lại từ đầu Sẵn đây giấy mực từng câu chép vào Trong ngoài hợp làm sao chứng tỏ Lẽ hằng nhiên thấu rõ đổi dời Theo niên năm vận tiết trời Ứng cùng sáu khí ở người mà ra. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 19.4.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 40 Có bốn mùa ngày qua tháng lại Trong một năm quan tái giang san Tránh sao cảm lạnh thương hàn Hoành hành dịch cúm lan tràn đó đây Cũng lắm kẻ còn gây dịch bệnh Lợi ích riêng toan tính tà quyền Mưu đồ hủy diệt thiên nhiên Bán hồn cho quỷ đảo điên nhân loài Khí nào hơn nguôi ngoai trăm nỗi Lạị vẽ bùa tội lỗi đua nhau Thương thiên hại lý khổ đau Ngũ hành xung khắc bạc màu tang thương Biết bao cảnh thê lương ảm đạm Bệnh nội thương ngoại cảm khí trời Ngoài tiêu trong bản chơi vơi Lần vào sáu phủ mạng người mong manh Trong năm tạng ngũ hành chi phối Phải phòng ngừa lạc lối tinh thần Toàn thân co rật bất an Phải chăng bởi chứng thương hàn thì sao? Ta cũng biết tạng nào mạch thể Từ tâm can tỳ phế thận danh Tử sinh xung khắc năm hành Gỉa như tâm hỏa sao đành bỏ qua Cũng tùy theo từng mùa khí tượng Bệnh nảy sinh theo hướng hỏa tà Xem ra trong cõi người ta Phải chăng thận thủy đắm sa lăng loàn Hai tạng ấy mà bàn tận gốc Thổ tỳ kim phế mộc chi can Ai hay từ đệ nhất quan Chứng nào tật ấy thương hàn gây ra Không hiểu biết cho là quỷ ám Bệnh nội tâm lại cảm trúng thương Sách ghi chữ “trúng” chữ “thương” Cho hay tà độc khí thường nhiễu nhương Cơn mưa gió bất thường u uất Hơi độc bay cảnh thật thê lương Núi đầm khe suối ruộng nương Bản làng xơ xác chán chường heo may Bệnh phong thấp tới nay nhân thế Thở khò khè thân thể lừ đừ Gật gà buồn ngủ ậm ừ Mạch phù uể oải đau nhừ chân tay Bệnh ôn độc nổi ngay như gấm Thân phát vằm lảm nhảm thường xuyên Nhức đầu nóng sốt liên miên Mồ hôi như tắm uống liền thần sa Ngư nghĩ bụng thật là cay đắng Dưới vòm trời bệnh trạng khác nhau Sư huynh cửa đạo đã lâu Mấy tầng nhà kín buồng sâu tận tường. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 20.4.2020 Lu Hà