(gồm những bài dài trên 24 câu) Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 2 Bạn đồng môn ai ngờ gặp lại Trên dòng sông buồm lái vi vu Lửa chài mây khói trời U Mui che gió Tấn mấy thu dãi dầu Thú phù sinh nông sâu nếm trải Tuổi hạc cao chẳng ngại sóng vờn Cá tôm đen khịt chập chờn Mặc đời ngao ngán giận hờn thế gian Bào Tử Phược băn khoăn thế sự Lắng tai nghe tư lự bạn hiền Nghẹn ngào cùng Mộng Thế Triền Tri âm tri kỷ hàn huyên dãi dề Người thức thời chẳng mê tiên phật Đường công danh lật đật phôi pha Thương câu thế đạo đồi ba Biết bao kẻ sĩ sa đà trần ai Tự huyễn hoặc cam lai khổ tận Bậc hàn nho lận đận áo cơm Trời già quen thói bờm xơm Sôi kinh nấu sử củi rơm cháy nồi Lòng nguội lạnh than ôi ngọn lửa Bếp nhà nghèo chữ nghĩa ích chi Khổng Khâu vật vã trí tri Dửng rưng Lão Tử tu mi thẹn thùng Thật nực cười cố cùng quân tử Nợ thanh khâm mồi nhử cá vàng Vinh quy bái tổ vẻ vang Quan trường chen chúc giàu sang dật dờ Gối hoàng lương giấc mơ vụt biến Mộng nam kha đàn kiến lao xao Vu Phần tham chén rượu đào Thảm thương phò mã ứa trào dòng châu Chả mấy chốc nương dâu bãi biển Khóc tang điền triền triện còn bay Phù du quyến rũ men say Sòng đời đen đỏ đắng cay não lòng Thuở Đông Chu long đong xuôi ngược Bao anh hùng cá cược vận may Đạo đời xung khắc đến nay Hạ Thương đường cũ càng day dứt nền Từ Văn Vũ tạo nên công nghiệp Bảy bá vương nối tiếp lợi danh Gầm ghè xâu xé tranh giành Kinh Lân dẹp loạn ruồi xanh một bầy Sử Mã khôn cáo cầy mọi rợ Mặc Dương càng dùi mõ lấn sang Tiếng chuông Phật Lão khua vang Lửa Tần tro Hạng sắt gang nguội dần Đám cửu lưu xa gần bái tổ Ánh trăng vàng cổ độ Hán am Chùa Lương nhả khói già lam Bên đường tam giáo càng ham xưng thầy Khe Đào Lý một bầy chạy trốn Trúc đình Lan chộn rộn cuồng say Thi thư mọt ruỗng ai hay Lê thê lễ nhạc sương bay mịt mù. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 11.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 3 Hận đại dương thiên thu dòng nước Chặn cội nguồn xâm lược lân bang Bàn môn tả đạo nhố nhăng Dân đen ngắc ngoải bẽ bàng triều cương Bào Tử Phược hỏi đường gia thất Mộng Thế Triền chân thật giãi bày Nỗi niềm u uẩn chất đầy Năm lần cưới vợ trật trầy mãi thôi Bốn nàng trước xa xôi chín suối Người cuối cũng tội lắm thay Xanh xao tàu lá gió bay Ốm đau vật vã chuỗi ngày sầu bi Hậu sản đã cướp đi tính mạng Củi bán ra chẳng đáng mấy thang Dại khờ tin tưởng thày lang Mua toàn thuốc rỏm bệnh càng nặng hơn Bầy quạ đen chập chờn bay lượn Bốn mả hoang rùng rợn khổ đau Chân chim rám nắng bạc màu Liễu bồ rặt rẹo sớm mau héo tàn Ngư phủ buồn ứa tràn giọt lệ Biết làm sao san sẻ điêu linh Xót xa cám cảnh phận mình Đói nghèo bệnh tật gia đình sầu tang Mười lần sinh vợ càng yếu đuối Đàn con thơ giận dỗi bỏ đi Bụng phình cam tích da chì Lòi trôn kiết lỵ mặt phì mụn ra Tám đứa hận sa bà oan trái Hồn lang thang quan ải mù sương Suối vàng lặn lội thê lương Chỉ còn hai đứa can trường lớn lên Cõi dương gian hao tiền tốn của Thương mẹ cha củi lửa sớm hôm Nhờ trời cũng lắm cá tôm Bát cơm manh áo trăng ôm mái nhà Khách lãng du quan hà kẻ sĩ Nhiều chuyển đò thú vị Y lâm Tiều phu nghe chuyện mừng thầm Học nghề thày thuốc từ tâm giúp đời Ngư phủ mới tươi cười hể hả Kỳ Nhân Sư thiên hạ lừng danh Nho gia y thuật đạo hành Tinh thông dược thảo thuần thành nhiều năm Đủ kinh luân chẳng nằm một chỗ Bậc đại phu đây đó xông pha Ẩn mình chôn ngọc thiết tha Vùi kim nương náu nhân hà cứu tinh Bào Tử Phược phân minh sau trước Chẳng kém chi Biển Thước Hoa Đà Ngựa xe cát bụi bao la Ngọa Long Cương, có mái nhà cỏ tranh Gia Cát Lượng thi hành chánh pháp Lưu Sứ quân thu nạp hiền tài Hi Di ngũ quý kìa ai Ngọc lân Sử Lỗ dao đài nguyệt sa *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 11.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 4 Mộng Thế Triền thiết tha cầu khẩn Tìm hiền nhân quyết dấn thân vô Nghe thơ khét tiếng cao đồ Quản chi biển cả giang hồ đó đây Tài Lý Đỗ chất đầy thuyền lưới Luật thi đường chẳng vội xưng danh Mặc cho thiên hạ tranh giành Văn chương sư phụ đạo hành chân y Bào Tử Phược Đan Kỳ lần tới Đường gập ghềnh rắc rối éo le Khỉ ho cò gáy suối khe Rừng sâu vực thẳm sơn khê dặm trường Phải nhằm hướng biên cương thảo dã Aỉ Nhân Khu thác đá giang đầu Lấy da bao thịt làm bầu Lạch thông chín nẻo dãi dầu tuyết sương Mười hai kinh lạc thường ngang dọc Phủ Dương Quan thần khóc quỷ sầu Trập trùng đồi cọ nương dâu Xéo ngang năm tạng qua cầu Âm Đô Thế sừng sững vách tô tả hữu Hồ huyết quan thạch lựu trổ hoa Nước non nguyên khí chan hòa Xôn xao hồn phách nhạt nhòa máu tươi Ngôi thần chủ chơi vơi sườn núi Sửa sang mình cắm cúi bước đi Thất tình nhục dục thầm thì Có vườn ngũ vị rầm rì tốt tươi Suối róc rách như lời du sĩ Còn lắm nơi huyền bí hiểm nghèo Mắt làng Lục Tặc dõi theo Quanh co ngõ ngách giữ đèo Tam Thi Ong bướm bay rầm rì hoa lá Cánh nhạn sa đàn cá tung tăng Xui lòng ái dục lăng nhăng Lăng loàn cửa mộng Bì nang mơ màng Hoa mẫu đơn dịu dàng uốn éo Đón gió xuân vào động Tôn Cân Thòm thèm chích chọe tranh phần Bỏ chùa bà vãi tần ngần ngẩn ngơ Sư hổ mang thẫn thờ đùi chó Qủy sa tăng dụ dỗ táo thơm Hai con trống mái bờm xơm Gà rừng vật lộn cỏ rơm say mèm Cây thập ác nhá nhem sáng tối Aó thụng đen bối rối đi đâu Nhấp nhô ngọn sóng bạc đầu Nho sinh hoang dại dãi dầu tuyết sương Thấy tấm biển hoàng dương ánh sáng Ánh trăng vàng tỏ rạng Tam Công Ai hay lạc lối tiên bồng Họa đồ ba bức chỉ hồng thêu nhung Ngồi trong miếu lạnh lùng Sư tổ Hồ linh đan thuốc đỏ hai hoàn Nghẹn ngào khóe hạnh chứa chan Bôi da trẻ nhỏ tật tàn mất tiêu *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 13.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 5 Rừng bách thảo phiêu diêu tự tại Bậc chân nhân chẳng ngại non cao Thương con lòng mẹ dạt dào Cao minh y thuật nghẹn ngào chúng sinh Vậy xin hỏi nhân huynh cho rõ Người quen kia đã tỏ tận tường Phược cười trong khách thập phương Có Châu Đạo Dẫn dặm trường phôi pha Triền do dự việc nhà bê bối Đôi ba ngày sẽ tới thăm anh Chần chừ ánh mắt tinh ranh Chỉ e Lục Tặc gian manh chặn đường Bào Tử Phược cương thường chính trực Võ nghệ cao mưu chước thâm sâu Quen nghề chài lưới vó câu Sá chi mấy đứa đâu trâu mặt bò Mộng Thế Triền đắn đo chi nữa Còn ngại ngùng lần lữa làm chi Cả hai bàn bạc tức thì Hẹn ngày xuất phát lễ nghi sẵn sàng Cũng vừa tiết xuân quang náo nức Mộng Thế Tiền thao thức sầu miên Buồng trong nghe vợ kêu rên Sang nhà nhạc mẫu kề bên dặn dò Đành gửi vợ bạc tiền chu đáo Đủ vài năm cơm gạo thuốc men Lang băm chữa chạy ho hen Qua ngày đoạn tháng phận hèn chờ mong Tay chống gậy thong dong đường bộ Cá tôm khô bao bố ngô khoai Rượu hồ tương gạo đè vai Quản chi lau lách cỏ gai bùn lầy Tiết thanh minh canh chầy rệu rã Ánh trăng vàng phiến đá tả tơi U yên cảnh cũ trêu ngươi Trăm hoa đua nở khóc cười dở dang Mưa tầm tã chói chang nắng cháy Khách qua đường chẳng thấy có ai Ngậm ngùi nghĩ chuyện khứ lai Đông Hoàng xa lắc trúc mai chỉ đường Cũng có lúc chán chường ngao ngán Đá chênh vênh suối cạn cúi đầu Bụi cây oan khuất lạy cầu Chúng sinh ngắc ngoải dãi dầu muối sương Lắm bệnh tật thê lương ảo não Chim líu lo mách bảo dân tình Mưa sầu gió thảm điêu linh Băn khoăn tự hỏi lộ trình ải xưa Bỗng có người cưỡi lừa đi tới Tiếng ngâm thơ vời vợi thanh tao Hai người dừng gót thì thào Đợi chờ sau tính hỏi chào xem sao? *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 14.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 6 Ngày đông giá hư hao lá rụng Phận nghèo hèn rẻ rúng lắm thay Thân gày trước gió lắt lay Bát cơm manh áo đắng cay nỗi niềm Miền sơn cước trên thềm sáng tỏ Vườn Lâm Y cây cỏ tốt tươi Trèo đèo lội suối tới nơi Viếng thăm đạo cốt nụ cười chân nhân Châu Đạo Dẫn tần ngần sửng sốt Bạn tương giao đường đột đến đây Ngư Tiều vội vã tỏ bày Thiết tha học thuốc tìm thày Nhân Sư Y thuật cao thiên tư đức hạnh Khắp ngân hà thái bạch chân như Lương y lòng mẹ nhân từ Công ơn tế độ giải trừ nguy nan Am Bảo Dưỡng bình an thư thái Đợi thày về ta lại hỏi xem Trăng thanh gió mát buông rèm Mười hai kinh mạch thòm thèm nông sâu Cả ba người cùng nhau kết nghiã Học nghề y thấm thía tâm tình Âm dương ba số bội tinh Tay chân tả hữu thân hình ra sao? Thập nhị ca dạt dào kinh lạc Kinh thái dương thông bác ruột non Thủ dương bọng đái sắt son Thái âm kinh túc lại còn tam tiêu Phải thuộc đường bao nhiêu chi phối Này dạ dày tim phổi thận gan Quản chi ngày tháng gian nan Lầu thông sách vở chứa chan ân tình Nhiều khí huyết dương minh kinh thủ Phải nhớ ngay tích tụ ruột già Dạ dày kinh túc đầm đìa Đôi khi thiếu máu phân chia bốn đường Ruột non bọng đái trương gan mật Bốn kinh thông phải thật tỏ tường Cốt cho tim phổi bình thường Điều hòa thân nhiệt canh trường ngủ ngon Mộng Thế Triền bệnh còn lắm chứng Kinh lạc nhiều chịu đựng sa sao? Họ Châu y thuật thày cao Kê đơn bắt mạch đem vào đường kinh Bốc thuốc đúng bệnh tình sẽ khỏi Tử Phược xin giám hỏi tiên sinh Chẳng may nhầm lẫn tứ kinh Khí hư năm tạng tâm linh mịt mờ? Tâm làm chủ thần nhơ xác nhược Sư Tổ thường biết trước tâm linh Chỉ xem dáng vẻ thân hình Tạng can thuộc mộc dưỡng sinh khí trời Tập khí công trong người thư thái Loại trừ ngay lo ngại buồn phiền Giữ cho thần thái an nhiên Tránh xa trác táng bạc tiền bon chen. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 15.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 7 Đời lắm kẻ ươn hèn bạc nhược Liên kết bầy ô trược tiểu nhân Thức ăn độc hại bất cần Xanh xao trắng dã dày gân buộc lèo Hồn khí uất hắt heo gió thổi Ứa vị toan hấp hối kêu rên Mạch sờ lay lắt chữ huyền Âm kinh túc ấy dẫn truyền toàn thân Cùng phủ đảm nối dần tâm tạng Thuộc hỏa kinh theo dạng mạch hồng Mùa hè sắc đỏ lưỡi phồng Thất thần tụ máu chất chồng mùi hôi Đường kinh thủ xa xôi âm thiếu Ngôi tiểu trường ngoại phủ lại càng Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng Thuận theo tứ quý tiềm tàng là vui Nếu nước dãi ngọt mùi mạch hoãn Tiếng ca nghe chắc chắn nuôi hình Thái âm kinh túc da mình Hợp cùng phủ vị thần linh trụ trì Tâm thư thái tức thì tạng phế Ngôi trung châu mạch thể kim ti Mùa thu sắc trắng vân vi Vị cay ròng phách biểu bì lông trơn Khi hắt hơi nước nhờn trong mũi Thái âm kinh bờ bụi tỏ tường Hợp cùng ngoại phủ đại trường Tạng kia thận nọ vẫn thường mùa đông Đều thuộc thủy phải thông thuộc trước Sắc vị đen chỉ được nuôi xương Rên la nước miếng thất thường Hai tai chừng đó giữ phương mạch trầm Phần kinh túc thiếu âm phải rõ Hợp bàng quang phủ đó hóa nguyên Tiều phu năm tạng đã biên Còn trong sáu phủ nói liền cho ra Đạo Dẫn cười người ta túi mật Xuân mộc kinh đúng thật thiếu dương Tượng theo nắm bắt phải tường Phủ can muôn mối liệu đường trước sau Chiều ruột nhỏ mau mau hạ hỏa Tiểu trường hay thoái hóa kinh cầm Bên ngoài giữ phủ an tâm Nước trôi rửa sạch âm thầm tạo sinh Phần kinh túc dương minh khẩn thiết Ăn uống càng phải biết can ngăn Kiêng khem chồng chất khó khăn Ruột rà bao tử trở trăn đêm ngày Đại trường nhức nhối ngay uế khí Phải lo xa tỳ vị hơi cầm Ních đầy cặn bã xuống hầm Phân đùn tanh tưởi thân tâm dật dờ. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 16.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 8 Ép bọng đái thấy dơ nước tiểu Kinh thái dương tiết niệu hoả hơi Biết ngay phủ ấy tả tơi Từ trên xuống giữa dưới thời tam tiêu Do ăn uống nạp nhiều tạp chất Để toàn thân bần bật rã rời Hơi thừa bủa khắp ba nơi Đứng ngồi không vững máu tươi ứa trào Phải kê đúng thuốc sao đặc hiệu Ngấm vào trong phải hiểu từng toa Mười hai kinh lạc điều hòa Giúp cho tạng phủ giao thoa thế nào? Ngư Tiều hỏi tâm bào kinh thủ Còn liệu chừng tam phủ âm dương Làm sao y thuật hiền lương Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư? Đạo Dẫn bảo Nhân Sư chứng thực Bến ngũ hành ý thức nhân sinh Mộc kim thủy hỏa thổ trình Hiểu cho cặn kẽ muôn hình vần xoay Mộc sinh hỏa ai hay thành thổ Thổ sinh kim hội ngộ thủy ra Thủy về mộc lại thiết tha Đất trời sinh sản bao la vô cùng Mộc khắc thổ mịt mùng thổ thủy Thủy chẳng ưa hỏa lụy chân kim Kim xa mộc lại đi tìm Mộc đâu giá lạnh im lìm chúng sinh Tiếng quạ kêu hôi rình xác chết Việc dữ lành thống thiết muôn loài Tử sinh trong cõi trần ai Cỏ cây muông thú u hoài ngàn năm Máy tạo hóa trăng rằm sáng tỏ Khéo khen thay tay thợ ngũ hành Phải coi sách ấy cho rành Dịch kinh hà lạc thuần thành mới thôi Aỉ Thiên Can mấy hồi Ngũ Vận Phải tinh tường chủ vận là chi? Thiên can mười chữ có ghi Anh em thứ lớp nhất nhì chẳng sai Sinh ra được một trai một gái Năm phương càng chẳng ngại âm dương Giáp cùng ất mộc đông phương Bính thì đinh hỏa tỏ tường nam phương Mậu kỷ thổ trung ương thấu tỏ Canh tân kim vẫn ở tây phương Thuận theo tạo vật vô thường Cùng nhâm quý thủy bắc phương ý trời. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 17.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 9 Năm ngôi chủ chẳng dời thời vận Suy ngẫm ra thân phận con người Trần gian dở khóc dở cười Nghìn năm vương vấn như lời thơ xưa Tiết Đại hàn đến chưa Mộc vận Trước ba ngày vận Hỏa hận thanh minh Ba ngày Mang chủng thành hình Ai hay Thổ vận rập rình theo sau Sáu ngày tới Lập thu Kim vận Chín ngày đầu lận đận Lập đông Khen thay tạo vật hóa công Muôn hình vạn trạng dõi trông mọi miền Cứ năm nhà túc duyên kỳ lạ Vợ hợp chồng vàng đá trước sau Giáp chàng nàng Kỷ cưới nhau Hóa ra vận Thổ một màu sắt son Ất Canh lại héo hon lòng dạ Mộc cây trầm sỏi đá Đinh Nhâm Bính Tân xem cũng chẳng lầm Thủy tràn lai láng lâm dâm sông hồ Vầng quang hỏa anh Mồ Chị Quý Bướm hoa sầu bi lụy khi mô Bởi năm hóa tạo ô hô Đôi bờ ân ái nhấp nhô sóng vờn Giàu tiền bạc chập chờn Kim mệnh Mộc thành rừng toan tính sau đây Thủy tuôn cuồn cuộn ngập đầy Hỏa thành ngọn lửa bấy chầy phương nam Suy sét ra từng năm vận khách Tính theo niên đành hạch chi ai Gỉa như Giáp Kỷ trúc mai Hóa ra hành Thổ khứ lai kể gì? Thổ sinh Kim vận nhi là vậy Kim sinh thành thủy ấy vận ba Thủy sinh mộc nảy gần xa Rừng cây chen chúc đó là vận tư Mộc sinh hỏa luận từ kinh dịch Bảy mươi hai ngày tính năm nay Lại dư năm khắc nào hay Lấy năm Giáp Kỷ lời thaỳ nói ra Bao năm nữa đều là như thế Phải coi chừng nặng nhẹ vân vi Đổi thay thay tinh tú các vì Ai hay xoay chuyển mấy khi ngũ hành Giáp bính mậu nhâm canh thái quá Bất cập đành nhân quả dương phân Năm đinh ất kỷ quý tân Còn bao trắc trở về phần âm can Phải biết được đaị hàn trước tiết Mười ba ngày khẩn thiết thái tiên Rồi sau tính đến hậu thiên Hai mươi sáu chẵn hậu tiên giao bàn *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 17.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 10 Đất có hậu thế gian trời định Cậy khôn ngoan mưu tính cái gì? Ngư tiều đến ải Địa Chi Thấy non lục khí đường đi ngoằn ngoèo Rừng âm u hắt heo chủ khí Cỏ đá chen vị trí đổi thay Mỉm cười Đạo Dẫn cho hay Có mười hai chữ vần xoay bốn mùa Dần Mão Mộc sim mua nở rộ Tiếng ve sầu tu hú gọi hè Hương thu thân dậu kim khoe Tiết đông hợi tý nước be dũng tuyền Thìn tuất sửu mùi liên đất lạnh Tứ quý càng hiển hách từng mùa Luân phiên sáu đợt ấn bùa Líu lo chim chóc gió lùa nắng xuân Lửa phừng phừng tới tuần quân hỏa Tiết xuân phân chuyển hóa hai ba Viêm oai hừng hực sơn hà Thái âm mưa móc cửa nhà nhá nhem Dương minh tới lom lem khô héo Thái dương hàn khí kéo rèm bưng Hân hoan uống chén rượu mừng Trai thanh gái lịch tưng bừng kết hôn Sáu hơi chủ thần hồn chẳng dứt Cứ từng năm giành dựt trời an Luân phiên từ tiết đại hàn Chính trong ngày ấy giao ban khí đầu Hơi bình chẳng trước sau tuần tự Sách Tàu ghi hai chữ tề thiên Bảo rằng “binh khí chi niên” Để cho chủ tử chính chuyên canh phòng Từ sáu cặp thong dong xung đối Xây vòng chia chẳng vội định ngôi Ô hay khách khí xa xôi Mong cho tý ngọ bồi hồi thiếu âm Xây một tòa thái âm quân hỏa Sửu đối mùi đe dọa thiếu âm Thái dương hàn thủy xuống tầm Đùng đùng sấm chớp mưa dầm liên miên Dần đối thân hoàng thiên tướng hỏa Khí thiếu dương phong tỏa giữ trời Quyết âm xuống đất muôn nơi Mộc truyền lan khắp xanh tươi một màu Năm mão dậu nhạt nhòa tý ngọ Ngược lại như chăng chớ tuất thìn Đắn đo tỵ hợi mỏi nhìn Đất trời u ám kìn kìn mây đen Giữ hoàng thiên vốn quen quân hỏa Dưới trần gian kim táo hai nơi Cầm quyền khí bốc lên trời Tư thiên tả hữu chơi vơi nẻo nào Ta cũng biết âm hao sáu khí Nam bắc kia ngọ tý chi niên Tuần hoàn ra thế liên miên Đất xung bên tả lan truyền khí sơ. *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 18.3.2020 Lu Hà Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 11 Khí thứ hai dật dờ bên hữu Ngôi thiên tư thành tựu thứ ba Trời kia bên tả tư ra Đất thì bên hữu rõ là khí năm Tư tuyền chung lăm lăm khí sáu Hơi bốn mùa nương náu đến nay Thung thăng khoảng sáu mươi ngày Tám mươi bảy khắc nữa rày hữu cơ Ngọn lúa đòng phất phơ thấp thoáng Yếu quyết xưa ló dạng đầu bờ Niềm vui thao thức bao giờ Hai ngôi thoái lại đợi chờ mỗi niên Cứ xuôi ngược đầu tiên chẳng trách Tý thiên tư bức bách về đâu Hai heo ba chuột bốn trâu Năm hùm sáu thỏ trọn xâu dẫn truyền Mão tư thiên xoán liền ngôi sửu Dấy khí sơ hùm thỏ đến rồng Rằng hai ba bốn đã thông Năm trăn sáu ngựa trọn công tư truyền Hai năm ấy lệ biên lâu nữa Này những năm thấp thổ tư thiên Thấy ngay hàn thủy đến phiên Như năm tướng hỏa mộc nhiên tạo thành Bởi chính hóa giao tranh đối lại Chẳng đồng nhau trở ngại gốc trồng Ngựa dê gà cọp heo rồng Chuột trâu khỉ thỏ rắn muông đua giành Theo gốc số bẩm sanh tạo hóa Đối nghịch nhau thời họa thực hư Thiếu thừa theo luật bù trừ Chỗ tiêu nơi bản đều từ ấy ra Thì hãy dở sách tra sẽ thấy Càng thấm nhuần lời dạy thực hay Cổ kim năm khí vận may Máy trời sáu khi xưa nay tỏ tường E khách chủ hai đường lẫn lộn Khó toan bề bận rộn ngó coi Đạo Dẫn tạo vật sáng soi Khí theo khí xét rạch ròi sử biên Như giáp tý chi niên giả dụ Vận khí chia quyền đủ một năm Giáp tìm thổ vận duyên cầm Tý đưa quân hỏa âm thầm khí đi Khách gia cũng chỉ vì trên chủ Chủ chịu lòn khí tụ ngưng tà Đất trời chẳng chịu dung hòa Trái ngang hơn thiệt mới ra bất tề Mùa xuân ấm chẳng về xoa dịu Gió heo may bấu víu lạnh lùng Mùa hè hơi nóng tận cùng Khí âm ẩn núp hãy hùng khí dương *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp 19.3.2020 Lu Hà