Chùm Thơ Tình Dài Số 284

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 3 19, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    (gồm những bài dài trên 24 câu)


    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 2


    Bạn đồng môn ai ngờ gặp lại

    Trên dòng sông buồm lái vi vu

    Lửa chài mây khói trời U

    Mui che gió Tấn mấy thu dãi dầu


    Thú phù sinh nông sâu nếm trải

    Tuổi hạc cao chẳng ngại sóng vờn

    Cá tôm đen khịt chập chờn

    Mặc đời ngao ngán giận hờn thế gian


    Bào Tử Phược băn khoăn thế sự

    Lắng tai nghe tư lự bạn hiền

    Nghẹn ngào cùng Mộng Thế Triền

    Tri âm tri kỷ hàn huyên dãi dề


    Người thức thời chẳng mê tiên phật

    Đường công danh lật đật phôi pha

    Thương câu thế đạo đồi ba

    Biết bao kẻ sĩ sa đà trần ai


    Tự huyễn hoặc cam lai khổ tận

    Bậc hàn nho lận đận áo cơm

    Trời già quen thói bờm xơm

    Sôi kinh nấu sử củi rơm cháy nồi


    Lòng nguội lạnh than ôi ngọn lửa

    Bếp nhà nghèo chữ nghĩa ích chi

    Khổng Khâu vật vã trí tri

    Dửng rưng Lão Tử tu mi thẹn thùng


    Thật nực cười cố cùng quân tử

    Nợ thanh khâm mồi nhử cá vàng

    Vinh quy bái tổ vẻ vang

    Quan trường chen chúc giàu sang dật dờ


    Gối hoàng lương giấc mơ vụt biến

    Mộng nam kha đàn kiến lao xao

    Vu Phần tham chén rượu đào

    Thảm thương phò mã ứa trào dòng châu


    Chả mấy chốc nương dâu bãi biển

    Khóc tang điền triền triện còn bay

    Phù du quyến rũ men say

    Sòng đời đen đỏ đắng cay não lòng


    Thuở Đông Chu long đong xuôi ngược

    Bao anh hùng cá cược vận may

    Đạo đời xung khắc đến nay

    Hạ Thương đường cũ càng day dứt nền


    Từ Văn Vũ tạo nên công nghiệp

    Bảy bá vương nối tiếp lợi danh

    Gầm ghè xâu xé tranh giành

    Kinh Lân dẹp loạn ruồi xanh một bầy


    Sử Mã khôn cáo cầy mọi rợ

    Mặc Dương càng dùi mõ lấn sang

    Tiếng chuông Phật Lão khua vang

    Lửa Tần tro Hạng sắt gang nguội dần


    Đám cửu lưu xa gần bái tổ

    Ánh trăng vàng cổ độ Hán am

    Chùa Lương nhả khói già lam

    Bên đường tam giáo càng ham xưng thầy


    Khe Đào Lý một bầy chạy trốn

    Trúc đình Lan chộn rộn cuồng say

    Thi thư mọt ruỗng ai hay

    Lê thê lễ nhạc sương bay mịt mù.


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    11.3.2020 Lu Hà




    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 3


    Hận đại dương thiên thu dòng nước

    Chặn cội nguồn xâm lược lân bang

    Bàn môn tả đạo nhố nhăng

    Dân đen ngắc ngoải bẽ bàng triều cương


    Bào Tử Phược hỏi đường gia thất

    Mộng Thế Triền chân thật giãi bày

    Nỗi niềm u uẩn chất đầy

    Năm lần cưới vợ trật trầy mãi thôi


    Bốn nàng trước xa xôi chín suối

    Người cuối cũng tội lắm thay

    Xanh xao tàu lá gió bay

    Ốm đau vật vã chuỗi ngày sầu bi


    Hậu sản đã cướp đi tính mạng

    Củi bán ra chẳng đáng mấy thang

    Dại khờ tin tưởng thày lang

    Mua toàn thuốc rỏm bệnh càng nặng hơn


    Bầy quạ đen chập chờn bay lượn

    Bốn mả hoang rùng rợn khổ đau

    Chân chim rám nắng bạc màu

    Liễu bồ rặt rẹo sớm mau héo tàn


    Ngư phủ buồn ứa tràn giọt lệ

    Biết làm sao san sẻ điêu linh

    Xót xa cám cảnh phận mình

    Đói nghèo bệnh tật gia đình sầu tang


    Mười lần sinh vợ càng yếu đuối

    Đàn con thơ giận dỗi bỏ đi

    Bụng phình cam tích da chì

    Lòi trôn kiết lỵ mặt phì mụn ra


    Tám đứa hận sa bà oan trái

    Hồn lang thang quan ải mù sương

    Suối vàng lặn lội thê lương

    Chỉ còn hai đứa can trường lớn lên


    Cõi dương gian hao tiền tốn của

    Thương mẹ cha củi lửa sớm hôm

    Nhờ trời cũng lắm cá tôm

    Bát cơm manh áo trăng ôm mái nhà


    Khách lãng du quan hà kẻ sĩ

    Nhiều chuyển đò thú vị Y lâm

    Tiều phu nghe chuyện mừng thầm

    Học nghề thày thuốc từ tâm giúp đời


    Ngư phủ mới tươi cười hể hả

    Kỳ Nhân Sư thiên hạ lừng danh

    Nho gia y thuật đạo hành

    Tinh thông dược thảo thuần thành nhiều năm


    Đủ kinh luân chẳng nằm một chỗ

    Bậc đại phu đây đó xông pha

    Ẩn mình chôn ngọc thiết tha

    Vùi kim nương náu nhân hà cứu tinh


    Bào Tử Phược phân minh sau trước

    Chẳng kém chi Biển Thước Hoa Đà

    Ngựa xe cát bụi bao la

    Ngọa Long Cương, có mái nhà cỏ tranh


    Gia Cát Lượng thi hành chánh pháp

    Lưu Sứ quân thu nạp hiền tài

    Hi Di ngũ quý kìa ai

    Ngọc lân Sử Lỗ dao đài nguyệt sa


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    11.3.2020 Lu Hà





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 4


    Mộng Thế Triền thiết tha cầu khẩn

    Tìm hiền nhân quyết dấn thân vô

    Nghe thơ khét tiếng cao đồ

    Quản chi biển cả giang hồ đó đây


    Tài Lý Đỗ chất đầy thuyền lưới

    Luật thi đường chẳng vội xưng danh

    Mặc cho thiên hạ tranh giành

    Văn chương sư phụ đạo hành chân y


    Bào Tử Phược Đan Kỳ lần tới

    Đường gập ghềnh rắc rối éo le

    Khỉ ho cò gáy suối khe

    Rừng sâu vực thẳm sơn khê dặm trường


    Phải nhằm hướng biên cương thảo dã

    Aỉ Nhân Khu thác đá giang đầu

    Lấy da bao thịt làm bầu

    Lạch thông chín nẻo dãi dầu tuyết sương


    Mười hai kinh lạc thường ngang dọc

    Phủ Dương Quan thần khóc quỷ sầu

    Trập trùng đồi cọ nương dâu

    Xéo ngang năm tạng qua cầu Âm Đô


    Thế sừng sững vách tô tả hữu

    Hồ huyết quan thạch lựu trổ hoa

    Nước non nguyên khí chan hòa

    Xôn xao hồn phách nhạt nhòa máu tươi


    Ngôi thần chủ chơi vơi sườn núi

    Sửa sang mình cắm cúi bước đi

    Thất tình nhục dục thầm thì

    Có vườn ngũ vị rầm rì tốt tươi


    Suối róc rách như lời du sĩ

    Còn lắm nơi huyền bí hiểm nghèo

    Mắt làng Lục Tặc dõi theo

    Quanh co ngõ ngách giữ đèo Tam Thi


    Ong bướm bay rầm rì hoa lá

    Cánh nhạn sa đàn cá tung tăng

    Xui lòng ái dục lăng nhăng

    Lăng loàn cửa mộng Bì nang mơ màng


    Hoa mẫu đơn dịu dàng uốn éo

    Đón gió xuân vào động Tôn Cân

    Thòm thèm chích chọe tranh phần

    Bỏ chùa bà vãi tần ngần ngẩn ngơ


    Sư hổ mang thẫn thờ đùi chó

    Qủy sa tăng dụ dỗ táo thơm

    Hai con trống mái bờm xơm

    Gà rừng vật lộn cỏ rơm say mèm


    Cây thập ác nhá nhem sáng tối

    Aó thụng đen bối rối đi đâu

    Nhấp nhô ngọn sóng bạc đầu

    Nho sinh hoang dại dãi dầu tuyết sương


    Thấy tấm biển hoàng dương ánh sáng

    Ánh trăng vàng tỏ rạng Tam Công

    Ai hay lạc lối tiên bồng

    Họa đồ ba bức chỉ hồng thêu nhung


    Ngồi trong miếu lạnh lùng Sư tổ

    Hồ linh đan thuốc đỏ hai hoàn

    Nghẹn ngào khóe hạnh chứa chan

    Bôi da trẻ nhỏ tật tàn mất tiêu


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    13.3.2020 Lu Hà




    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 5


    Rừng bách thảo phiêu diêu tự tại

    Bậc chân nhân chẳng ngại non cao

    Thương con lòng mẹ dạt dào

    Cao minh y thuật nghẹn ngào chúng sinh


    Vậy xin hỏi nhân huynh cho rõ

    Người quen kia đã tỏ tận tường

    Phược cười trong khách thập phương

    Có Châu Đạo Dẫn dặm trường phôi pha


    Triền do dự việc nhà bê bối

    Đôi ba ngày sẽ tới thăm anh

    Chần chừ ánh mắt tinh ranh

    Chỉ e Lục Tặc gian manh chặn đường


    Bào Tử Phược cương thường chính trực

    Võ nghệ cao mưu chước thâm sâu

    Quen nghề chài lưới vó câu

    Sá chi mấy đứa đâu trâu mặt bò


    Mộng Thế Triền đắn đo chi nữa

    Còn ngại ngùng lần lữa làm chi

    Cả hai bàn bạc tức thì

    Hẹn ngày xuất phát lễ nghi sẵn sàng


    Cũng vừa tiết xuân quang náo nức

    Mộng Thế Tiền thao thức sầu miên

    Buồng trong nghe vợ kêu rên

    Sang nhà nhạc mẫu kề bên dặn dò


    Đành gửi vợ bạc tiền chu đáo

    Đủ vài năm cơm gạo thuốc men

    Lang băm chữa chạy ho hen

    Qua ngày đoạn tháng phận hèn chờ mong


    Tay chống gậy thong dong đường bộ

    Cá tôm khô bao bố ngô khoai

    Rượu hồ tương gạo đè vai

    Quản chi lau lách cỏ gai bùn lầy


    Tiết thanh minh canh chầy rệu rã

    Ánh trăng vàng phiến đá tả tơi

    U yên cảnh cũ trêu ngươi

    Trăm hoa đua nở khóc cười dở dang


    Mưa tầm tã chói chang nắng cháy

    Khách qua đường chẳng thấy có ai

    Ngậm ngùi nghĩ chuyện khứ lai

    Đông Hoàng xa lắc trúc mai chỉ đường


    Cũng có lúc chán chường ngao ngán

    Đá chênh vênh suối cạn cúi đầu

    Bụi cây oan khuất lạy cầu

    Chúng sinh ngắc ngoải dãi dầu muối sương


    Lắm bệnh tật thê lương ảo não

    Chim líu lo mách bảo dân tình

    Mưa sầu gió thảm điêu linh

    Băn khoăn tự hỏi lộ trình ải xưa


    Bỗng có người cưỡi lừa đi tới

    Tiếng ngâm thơ vời vợi thanh tao

    Hai người dừng gót thì thào

    Đợi chờ sau tính hỏi chào xem sao?


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    14.3.2020 Lu Hà





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 6


    Ngày đông giá hư hao lá rụng

    Phận nghèo hèn rẻ rúng lắm thay

    Thân gày trước gió lắt lay

    Bát cơm manh áo đắng cay nỗi niềm


    Miền sơn cước trên thềm sáng tỏ

    Vườn Lâm Y cây cỏ tốt tươi

    Trèo đèo lội suối tới nơi

    Viếng thăm đạo cốt nụ cười chân nhân


    Châu Đạo Dẫn tần ngần sửng sốt

    Bạn tương giao đường đột đến đây

    Ngư Tiều vội vã tỏ bày

    Thiết tha học thuốc tìm thày Nhân Sư


    Y thuật cao thiên tư đức hạnh

    Khắp ngân hà thái bạch chân như

    Lương y lòng mẹ nhân từ

    Công ơn tế độ giải trừ nguy nan


    Am Bảo Dưỡng bình an thư thái

    Đợi thày về ta lại hỏi xem

    Trăng thanh gió mát buông rèm

    Mười hai kinh mạch thòm thèm nông sâu


    Cả ba người cùng nhau kết nghiã

    Học nghề y thấm thía tâm tình

    Âm dương ba số bội tinh

    Tay chân tả hữu thân hình ra sao?


    Thập nhị ca dạt dào kinh lạc

    Kinh thái dương thông bác ruột non

    Thủ dương bọng đái sắt son

    Thái âm kinh túc lại còn tam tiêu


    Phải thuộc đường bao nhiêu chi phối

    Này dạ dày tim phổi thận gan

    Quản chi ngày tháng gian nan


    Lầu thông sách vở chứa chan ân tình


    Nhiều khí huyết dương minh kinh thủ

    Phải nhớ ngay tích tụ ruột già

    Dạ dày kinh túc đầm đìa

    Đôi khi thiếu máu phân chia bốn đường


    Ruột non bọng đái trương gan mật

    Bốn kinh thông phải thật tỏ tường

    Cốt cho tim phổi bình thường

    Điều hòa thân nhiệt canh trường ngủ ngon


    Mộng Thế Triền bệnh còn lắm chứng

    Kinh lạc nhiều chịu đựng sa sao?

    Họ Châu y thuật thày cao

    Kê đơn bắt mạch đem vào đường kinh


    Bốc thuốc đúng bệnh tình sẽ khỏi

    Tử Phược xin giám hỏi tiên sinh

    Chẳng may nhầm lẫn tứ kinh

    Khí hư năm tạng tâm linh mịt mờ?


    Tâm làm chủ thần nhơ xác nhược

    Sư Tổ thường biết trước tâm linh

    Chỉ xem dáng vẻ thân hình

    Tạng can thuộc mộc dưỡng sinh khí trời


    Tập khí công trong người thư thái

    Loại trừ ngay lo ngại buồn phiền

    Giữ cho thần thái an nhiên

    Tránh xa trác táng bạc tiền bon chen.


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    15.3.2020 Lu Hà





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 7


    Đời lắm kẻ ươn hèn bạc nhược

    Liên kết bầy ô trược tiểu nhân

    Thức ăn độc hại bất cần

    Xanh xao trắng dã dày gân buộc lèo


    Hồn khí uất hắt heo gió thổi

    Ứa vị toan hấp hối kêu rên

    Mạch sờ lay lắt chữ huyền

    Âm kinh túc ấy dẫn truyền toàn thân


    Cùng phủ đảm nối dần tâm tạng

    Thuộc hỏa kinh theo dạng mạch hồng

    Mùa hè sắc đỏ lưỡi phồng

    Thất thần tụ máu chất chồng mùi hôi


    Đường kinh thủ xa xôi âm thiếu

    Ngôi tiểu trường ngoại phủ lại càng

    Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng

    Thuận theo tứ quý tiềm tàng là vui


    Nếu nước dãi ngọt mùi mạch hoãn

    Tiếng ca nghe chắc chắn nuôi hình

    Thái âm kinh túc da mình

    Hợp cùng phủ vị thần linh trụ trì


    Tâm thư thái tức thì tạng phế

    Ngôi trung châu mạch thể kim ti

    Mùa thu sắc trắng vân vi

    Vị cay ròng phách biểu bì lông trơn


    Khi hắt hơi nước nhờn trong mũi

    Thái âm kinh bờ bụi tỏ tường

    Hợp cùng ngoại phủ đại trường

    Tạng kia thận nọ vẫn thường mùa đông


    Đều thuộc thủy phải thông thuộc trước

    Sắc vị đen chỉ được nuôi xương

    Rên la nước miếng thất thường

    Hai tai chừng đó giữ phương mạch trầm


    Phần kinh túc thiếu âm phải rõ

    Hợp bàng quang phủ đó hóa nguyên

    Tiều phu năm tạng đã biên

    Còn trong sáu phủ nói liền cho ra


    Đạo Dẫn cười người ta túi mật

    Xuân mộc kinh đúng thật thiếu dương

    Tượng theo nắm bắt phải tường

    Phủ can muôn mối liệu đường trước sau


    Chiều ruột nhỏ mau mau hạ hỏa

    Tiểu trường hay thoái hóa kinh cầm

    Bên ngoài giữ phủ an tâm

    Nước trôi rửa sạch âm thầm tạo sinh


    Phần kinh túc dương minh khẩn thiết

    Ăn uống càng phải biết can ngăn

    Kiêng khem chồng chất khó khăn

    Ruột rà bao tử trở trăn đêm ngày


    Đại trường nhức nhối ngay uế khí

    Phải lo xa tỳ vị hơi cầm

    Ních đầy cặn bã xuống hầm

    Phân đùn tanh tưởi thân tâm dật dờ.


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    16.3.2020 Lu Hà




    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 8


    Ép bọng đái thấy dơ nước tiểu

    Kinh thái dương tiết niệu hoả hơi

    Biết ngay phủ ấy tả tơi

    Từ trên xuống giữa dưới thời tam tiêu


    Do ăn uống nạp nhiều tạp chất

    Để toàn thân bần bật rã rời

    Hơi thừa bủa khắp ba nơi

    Đứng ngồi không vững máu tươi ứa trào


    Phải kê đúng thuốc sao đặc hiệu

    Ngấm vào trong phải hiểu từng toa

    Mười hai kinh lạc điều hòa

    Giúp cho tạng phủ giao thoa thế nào?


    Ngư Tiều hỏi tâm bào kinh thủ

    Còn liệu chừng tam phủ âm dương

    Làm sao y thuật hiền lương

    Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư?


    Đạo Dẫn bảo Nhân Sư chứng thực

    Bến ngũ hành ý thức nhân sinh

    Mộc kim thủy hỏa thổ trình

    Hiểu cho cặn kẽ muôn hình vần xoay


    Mộc sinh hỏa ai hay thành thổ

    Thổ sinh kim hội ngộ thủy ra

    Thủy về mộc lại thiết tha

    Đất trời sinh sản bao la vô cùng


    Mộc khắc thổ mịt mùng thổ thủy

    Thủy chẳng ưa hỏa lụy chân kim

    Kim xa mộc lại đi tìm

    Mộc đâu giá lạnh im lìm chúng sinh


    Tiếng quạ kêu hôi rình xác chết

    Việc dữ lành thống thiết muôn loài

    Tử sinh trong cõi trần ai

    Cỏ cây muông thú u hoài ngàn năm


    Máy tạo hóa trăng rằm sáng tỏ

    Khéo khen thay tay thợ ngũ hành

    Phải coi sách ấy cho rành

    Dịch kinh hà lạc thuần thành mới thôi


    Aỉ Thiên Can mấy hồi Ngũ Vận

    Phải tinh tường chủ vận là chi?

    Thiên can mười chữ có ghi

    Anh em thứ lớp nhất nhì chẳng sai


    Sinh ra được một trai một gái

    Năm phương càng chẳng ngại âm dương

    Giáp cùng ất mộc đông phương

    Bính thì đinh hỏa tỏ tường nam phương


    Mậu kỷ thổ trung ương thấu tỏ

    Canh tân kim vẫn ở tây phương

    Thuận theo tạo vật vô thường

    Cùng nhâm quý thủy bắc phương ý trời.


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    17.3.2020 Lu Hà





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 9


    Năm ngôi chủ chẳng dời thời vận

    Suy ngẫm ra thân phận con người

    Trần gian dở khóc dở cười

    Nghìn năm vương vấn như lời thơ xưa


    Tiết Đại hàn đến chưa Mộc vận

    Trước ba ngày vận Hỏa hận thanh minh

    Ba ngày Mang chủng thành hình

    Ai hay Thổ vận rập rình theo sau


    Sáu ngày tới Lập thu Kim vận

    Chín ngày đầu lận đận Lập đông

    Khen thay tạo vật hóa công

    Muôn hình vạn trạng dõi trông mọi miền


    Cứ năm nhà túc duyên kỳ lạ

    Vợ hợp chồng vàng đá trước sau

    Giáp chàng nàng Kỷ cưới nhau

    Hóa ra vận Thổ một màu sắt son


    Ất Canh lại héo hon lòng dạ

    Mộc cây trầm sỏi đá Đinh Nhâm

    Bính Tân xem cũng chẳng lầm

    Thủy tràn lai láng lâm dâm sông hồ


    Vầng quang hỏa anh Mồ Chị Quý

    Bướm hoa sầu bi lụy khi mô

    Bởi năm hóa tạo ô hô

    Đôi bờ ân ái nhấp nhô sóng vờn


    Giàu tiền bạc chập chờn Kim mệnh

    Mộc thành rừng toan tính sau đây

    Thủy tuôn cuồn cuộn ngập đầy

    Hỏa thành ngọn lửa bấy chầy phương nam


    Suy sét ra từng năm vận khách

    Tính theo niên đành hạch chi ai

    Gỉa như Giáp Kỷ trúc mai

    Hóa ra hành Thổ khứ lai kể gì?


    Thổ sinh Kim vận nhi là vậy

    Kim sinh thành thủy ấy vận ba

    Thủy sinh mộc nảy gần xa

    Rừng cây chen chúc đó là vận tư


    Mộc sinh hỏa luận từ kinh dịch

    Bảy mươi hai ngày tính năm nay

    Lại dư năm khắc nào hay

    Lấy năm Giáp Kỷ lời thaỳ nói ra



    Bao năm nữa đều là như thế

    Phải coi chừng nặng nhẹ vân vi

    Đổi thay thay tinh tú các vì

    Ai hay xoay chuyển mấy khi ngũ hành


    Giáp bính mậu nhâm canh thái quá

    Bất cập đành nhân quả dương phân

    Năm đinh ất kỷ quý tân

    Còn bao trắc trở về phần âm can


    Phải biết được đaị hàn trước tiết

    Mười ba ngày khẩn thiết thái tiên

    Rồi sau tính đến hậu thiên

    Hai mươi sáu chẵn hậu tiên giao bàn


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    17.3.2020 Lu Hà





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 10


    Đất có hậu thế gian trời định

    Cậy khôn ngoan mưu tính cái gì?

    Ngư tiều đến ải Địa Chi

    Thấy non lục khí đường đi ngoằn ngoèo


    Rừng âm u hắt heo chủ khí

    Cỏ đá chen vị trí đổi thay

    Mỉm cười Đạo Dẫn cho hay

    Có mười hai chữ vần xoay bốn mùa


    Dần Mão Mộc sim mua nở rộ

    Tiếng ve sầu tu hú gọi hè

    Hương thu thân dậu kim khoe

    Tiết đông hợi tý nước be dũng tuyền


    Thìn tuất sửu mùi liên đất lạnh

    Tứ quý càng hiển hách từng mùa

    Luân phiên sáu đợt ấn bùa

    Líu lo chim chóc gió lùa nắng xuân


    Lửa phừng phừng tới tuần quân hỏa

    Tiết xuân phân chuyển hóa hai ba

    Viêm oai hừng hực sơn hà

    Thái âm mưa móc cửa nhà nhá nhem


    Dương minh tới lom lem khô héo

    Thái dương hàn khí kéo rèm bưng

    Hân hoan uống chén rượu mừng

    Trai thanh gái lịch tưng bừng kết hôn


    Sáu hơi chủ thần hồn chẳng dứt

    Cứ từng năm giành dựt trời an

    Luân phiên từ tiết đại hàn

    Chính trong ngày ấy giao ban khí đầu


    Hơi bình chẳng trước sau tuần tự

    Sách Tàu ghi hai chữ tề thiên

    Bảo rằng “binh khí chi niên”

    Để cho chủ tử chính chuyên canh phòng


    Từ sáu cặp thong dong xung đối

    Xây vòng chia chẳng vội định ngôi

    Ô hay khách khí xa xôi

    Mong cho tý ngọ bồi hồi thiếu âm


    Xây một tòa thái âm quân hỏa

    Sửu đối mùi đe dọa thiếu âm

    Thái dương hàn thủy xuống tầm

    Đùng đùng sấm chớp mưa dầm liên miên


    Dần đối thân hoàng thiên tướng hỏa

    Khí thiếu dương phong tỏa giữ trời

    Quyết âm xuống đất muôn nơi

    Mộc truyền lan khắp xanh tươi một màu


    Năm mão dậu nhạt nhòa tý ngọ

    Ngược lại như chăng chớ tuất thìn

    Đắn đo tỵ hợi mỏi nhìn

    Đất trời u ám kìn kìn mây đen


    Giữ hoàng thiên vốn quen quân hỏa

    Dưới trần gian kim táo hai nơi

    Cầm quyền khí bốc lên trời

    Tư thiên tả hữu chơi vơi nẻo nào


    Ta cũng biết âm hao sáu khí

    Nam bắc kia ngọ tý chi niên

    Tuần hoàn ra thế liên miên

    Đất xung bên tả lan truyền khí sơ.


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    18.3.2020 Lu Hà





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 11


    Khí thứ hai dật dờ bên hữu

    Ngôi thiên tư thành tựu thứ ba

    Trời kia bên tả tư ra

    Đất thì bên hữu rõ là khí năm


    Tư tuyền chung lăm lăm khí sáu

    Hơi bốn mùa nương náu đến nay

    Thung thăng khoảng sáu mươi ngày

    Tám mươi bảy khắc nữa rày hữu cơ


    Ngọn lúa đòng phất phơ thấp thoáng

    Yếu quyết xưa ló dạng đầu bờ

    Niềm vui thao thức bao giờ

    Hai ngôi thoái lại đợi chờ mỗi niên


    Cứ xuôi ngược đầu tiên chẳng trách

    Tý thiên tư bức bách về đâu

    Hai heo ba chuột bốn trâu

    Năm hùm sáu thỏ trọn xâu dẫn truyền


    Mão tư thiên xoán liền ngôi sửu

    Dấy khí sơ hùm thỏ đến rồng

    Rằng hai ba bốn đã thông

    Năm trăn sáu ngựa trọn công tư truyền


    Hai năm ấy lệ biên lâu nữa

    Này những năm thấp thổ tư thiên

    Thấy ngay hàn thủy đến phiên

    Như năm tướng hỏa mộc nhiên tạo thành


    Bởi chính hóa giao tranh đối lại

    Chẳng đồng nhau trở ngại gốc trồng

    Ngựa dê gà cọp heo rồng

    Chuột trâu khỉ thỏ rắn muông đua giành


    Theo gốc số bẩm sanh tạo hóa

    Đối nghịch nhau thời họa thực hư

    Thiếu thừa theo luật bù trừ

    Chỗ tiêu nơi bản đều từ ấy ra


    Thì hãy dở sách tra sẽ thấy

    Càng thấm nhuần lời dạy thực hay

    Cổ kim năm khí vận may

    Máy trời sáu khi xưa nay tỏ tường


    E khách chủ hai đường lẫn lộn

    Khó toan bề bận rộn ngó coi

    Đạo Dẫn tạo vật sáng soi

    Khí theo khí xét rạch ròi sử biên


    Như giáp tý chi niên giả dụ

    Vận khí chia quyền đủ một năm

    Giáp tìm thổ vận duyên cầm

    Tý đưa quân hỏa âm thầm khí đi


    Khách gia cũng chỉ vì trên chủ

    Chủ chịu lòn khí tụ ngưng tà

    Đất trời chẳng chịu dung hòa

    Trái ngang hơn thiệt mới ra bất tề


    Mùa xuân ấm chẳng về xoa dịu

    Gió heo may bấu víu lạnh lùng

    Mùa hè hơi nóng tận cùng

    Khí âm ẩn núp hãy hùng khí dương


    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

    19.3.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share