Ca Dao Trào Phúng

Thảo luận trong 'Lê Thương' bắt đầu bởi Lê Thương, Thg 2 7, 2012.

  1. Lê Thương

    Lê Thương New Member

    Tham gia ngày:
    Thg 2 7, 2012
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    CA DAO TRÀO PHÚNG

    LÊ THƯƠNG


    Đề cập đến văn chương, chúng ta không thể nào bỏ qua nền thi ca bình dân mà ca dao là một trong những thể loại quen thuộc nầy. Từ lâu, ca dao đã đi vào lòng dân tộc và ca dao trào phúng là ca dao nói về những nét trào phúng, hài hước, bông đùa, hóm hinh, dí dỏm trong kho tàng văn chương bình dân của tiếng Việt ta.

    Ngày xưa, cha mẹ chồng rất hà khắc với nàng dâu, nhất là mẹ chồng cho nên các cô gái ngày xưa rất “ớn” về làm dâu nhà chồng:

    Gió đưa bụi chuối tùm lum,
    Mẹ anh như hùm ai dám làm dâu.

    Hay:

    Bà con có biết hay không?
    Bố chồng là lông chim phượng.
    Mẹ chồng là tượng mới tô,
    Nàng dâu mới về là bồ chịu chửi.

    Còn các nàng dâu ngày nay đã có các “Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ” đứng sau lưng hay “Đời Mới, Phụ Nữ Mới” vì thế các nàng thường ngâm nga câu:

    Ai ơi chồng dữ thì lo,
    Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
    Đó là mẹ chồng dữ, còn cha chồng mà dữ thì:

    Ai ơi chồng dữ thì rầu,
    Bố chồng mà dữ mổ trâu ăn mừng.

    Trong tình trường, có nhiều cô gái ỷ mình đẹp, có nhan sắc hay con nhà giảu nên làm cao:

    Anh về chẻ lạt bó tro,
    Rán sành ra mỡ em cho làm chồng.

    Hoặc:

    Duyên em đáng giá ngàn vàng,
    Anh về bán cả họ hàng cưới em.

    Nhưng chàng trai đáp:

    Anh về bán cái hột xoàn,
    Bán thêm cây vÀng dư sức cưới em.

    Hay:

    Thân em như cái chuông vàng,
    Để trong thành nội có ngàn lính canh.

    Chàng trai đáp lại:

    Thân anh như cái chày vồ,
    Bỏ lăn, bỏ lốc chờ ngày dộng chuông.

    Đối với những cặp vợ chồng mà tuổi tác hay kích thước chênh lệch thì ca dao trào phúng có câu:

    Có phúc lấy phải vợ già,
    Sạch cửa, sạch nhà lại ngọt cơm canh.

    Vô phúc lấy phải trẻ ranh (bồ nhí),
    Nó ăn, nó phá tan tành nó đi.

    Hay:

    Ai đời chồng thấp, vợ cao,
    Rờ vú không tới lấy sào mà quơ.

    Còn về những phụ nữ nhan sắc tàn phai, ca dao ta có câu châm biếm:

    Mồ cha con bướm khôn ngoan,
    Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay.

    Hay:

    Còn duyên như tượng tô vàng,
    Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.

    Hoặc:

    Còn duyên kẻ đón người đưa.
    Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng.

    Và:

    Còn duyên kẻ đợi người chờ,
    Hết duyên vắng ngắt như Chùa Bà Đanh.

    Trong tình trường, những kẻ nhiều kiên nhẫn, “lì” thì đạt được thành công:

    Chuông già đồng điếu chuông kêu,
    Anh già lời nói em xiêu tấm lòng.

    Nhưng đối với những phụ nữ nhẹ dạ thường nghe những lời nỉ non ngon ngọt ca dao ta khuyên:

    Chớ nghe quân tử nỉ non,
    Để rồi có lúc ẵm con một mình.

    Hay:

    Gá duyên với bạn hôm rằm,
    Bữa nay bạn bỏ tôi nằm phòng không.

    Còn những phụ nữ có chồng mê vợ bé, bỏ bê gia đình thì than:

    Gió đưa bụi chuối sau hè,
    Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.

    Con thơ tay ẵm, tay bồng,
    Tay nào xách nước, tay nào vo cơm.

    Bởi thế cho nên ca dao khuyên những người đàn ông nhiều vợ rằng:

    Trồng trầu thì phải khai mương,
    Làm trai nhiều vợ phải thương cho đồng.

    Đàn ông là những người tham lam cho nên ca dao có câu:

    Sông bao nhiêu nước cho vừa,
    Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.

    Đàn ông tham lam, năm, bảy trái tim:

    Đàn ông năm, bảy trái tim,
    Trái ở cùng vợ, trái toan cùng người.

    Hay:

    Hai cô đứng lại cho đồng,
    Để anh đứng giữa làm chồng hai cô.

    Hoặc:

    Lựu, lê anh cũng muốn trồng,
    Hai em anh cũng thương đồng cả hai.

    Và:

    Cây lê, cây lựu, cây đào,
    Ba cây anh cũng muốn rào cả ba.

    Ca dao ta cũng trách những người ăn ở hai lòng:

    Trách ai ăn ở hai lòng,
    Đang chơi với phượng, thấy rồng bay theo.

    Ở đời có nhiều người chủ quan, tự phụ:

    Gió thu thổi ngọn phù dung,
    Dạ nàng dù sắt anh nung cũng mềm.

    Trong tình trường, có người tán gái hơi ngộ nghĩnh:

    Gái chưa chồng hay đi chợ,
    Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh.

    Ngó lên mây trắng trời xanh,
    Thương ai cũng vậy, thương anh cho rồi.

    Khi mới quen nhau:

    Nàng về ta chẳng cho về,
    Níu áo nàng lại ta đề bài thơ

    Hay:

    Nàng về ta chẳng cho về,
    Nắm áo nàng lại ta đề số phone.

    Khi yêu nhau, ta nương tựa nhau, ta dìu dắt nhau:

    Đôi ta như rắn liu điu,
    Nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau.

    Khi yêu nhau, ta thương nhớ nhau, muốn gần gũi bên nhau nên nàng ước:

    Ước gì em hóa ra dơi,
    Bay đi bay lại đến nơi anh nằm.

    Hay:

    Thương anh không tính bạc tiền,
    Hôn nhau một cái chết liền cũng vui.

    Hoặc:

    Anh về em cũng về theo,
    Mẹ anh đóng cửa, em leo cột nhà.

    Tục ngữ có câu “Nhất gái hơn hai, nhì trai hơn một” cho nên:

    Tuổi nàng đã chẵn hai mươi,
    Tuổi anh hăm mốt tốt tươi quá chừng.

    “Cua” em để dành:

    Cam sành lột vỏ còn chua,
    Thấy em còn bé, anh “cua” để dành.

    Hay:

    Cam đường bóc vỏ còn the,
    Thấy em còn bé anh “ve” để dành.

    Và:

    Cầm chài mà vãi bụi tre,
    Con gái mười bảy đi “ve” ông già.

    Trong tình trường, khi yêu nhau cưới liền để lâu thì mất cho nên ca dao khuyên:

    Ai về nhắn với ông câu,
    Cá ăn thời giật, để lâu mất mồi.

    Đối với những anh chàng dại gái, ca dao trào phúng châm biếm:

    Tiếc công khổ cực nuôi cu,
    Cu ăn, cu lớn, cu gù, cu đi,

    Hay:

    Công anh xúc tép nuôi lươn,
    Nuôi cho nó lớn, nó trườn nó đi.

    Hoặc:

    Công anh chăn nghé đã lâu,
    Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày.

    Cá ăn không giật để lâu mất mồi rồi than trời, trách đất:

    Trách trời sao vội mưa giông,
    Trách em sao vội lấy chồng bỏ anh.

    Còn đối với những anh chàng thất tình, ca dao trào phúng bông đùa:

    Rồi đây có kẻ thất tình,
    Dựa mai mai ngã, dựa tùng tùng xiêu.

    Hay:

    Chiều chiều có kẻ thất tình,
    Dựa mai mai úa, dựa đình đình xiêu.

    Hoặc:

    Thất tình nước mắt như mưa,
    Thấu trời, thấu đất nhưng chưa thấu lòng.

    Và:

    Châu sa nước mắt ròng ròng,
    Thấu thiên, thấu địa, thấu lòng em chăng?

    Trai tơ đòi vợ:

    Chuối non chuối ép chát ngầm,
    Trai tơ đòi vợ khóc thầm ban đêm.

    Khóc rồi mẹ lại đánh thêm,
    Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mày.

    Còn những chàng trai tơ mà lấy gái nạ dòng, ca dao trào phúng chế giễu:

    Trai tơ thì lấy gái tơ,
    Đi đâu lật đật mà quơ nạ dòng.

    Không đưa hối lộ đếch “ừ”:
    Chắp tay lạy cụ tỉnh yêu,

    Cho con lấy được nàng Kiều ngày nay.

    Cụ nhìn trợn mắt, cau mày,
    Không đưa hối lộ thì đây đếch “ừ”.

    Đi đâu mà chẳng lấy chồng:

    Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
    Người ta lấy hết chổng mông mà gào.

    Gào rằng đất hỡi, trời ơi,
    Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng?

    Hay:

    Đi chùa lạy Phật cầu chồng,
    Hộ Pháp liền bảo đàn ông hết rồi.

    Vì không chồng cho nên buồn rầu:

    Buồn rầu, buồn rĩ, buồn non,
    Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng.

    Hết buồn rầu lại đến buồn tình:

    Buồn tinh nằm ngửa chình inh,
    Không ai nằm úp lên minh cho vui.

    Và:

    Buồn tình hai đứa buồn tình,
    Ai về Đồng Tháp cho mình quá giang.

    Con gái mà chơi với con trai:

    Con gái chơi với con trai,
    Rồi sau cái vú bằng hai trái dừa.

    Má ơi đừng gả con gần:

    Má ơi đừng gả con xa,
    Chim kêu, vượn hú biết đâu mà lần.

    Má ơi đừng gả con gần,
    Con qua xúc gạo nhiều lần má la.

    Chọn bạn mà chơi:

    Chọn xoài đừng chọn xoài chua,
    Chọn bạn đừng để bạn “cua” bồ mình.

    Sài Gòn, Nam Vang đi dễ, khó về:

    Sài Gòn đi dễ khó về,
    Trai đi có vợ, gái về có con.

    Hoặc:

    Nam Vang đi dễ khó về,
    Trai đi có vợ, gái về có con.

    Đường cong cong, quèo quẹo:

    Đường Sài Gòn cong cong, quèo quẹo,
    Gái Sài Gòn không ghẹo mà theo.

    Hay:

    Đường lục tỉnh cong cong, quèo quẹo,
    Gái lục tỉnh không ghẹo mà theo.

    Nhiều gái ế chồng:

    Bến Tre nhiều gái ế chồng,
    Không tin xuống chợ Mỹ Lồng mà coi!

    Ca dao trào phúng của ta cũng không quên bông đùa, chiâm biếm những phụ nữ có tánh

    lẳng lơ, hoa nguyệt:

    Anh đánh thì em chịu đòn,
    Tánh em hoa nguyệt mười con chẳng chừa.

    Hay:

    Chỉ đâu mà buộc ngang trời,
    Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ.

    Hoặc:

    Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa,
    Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ vẫn cón.

    Chờ ông láng giềng:

    Đêm qua để cửa chờ chồng,
    Đêm nay để cửa chờ ông láng giềng.

    Và:

    Cái giường mà biết nói năng,
    Thì ông hàng xóm hàm răng chẳng còn.

    Giữa chồng và trai:

    Hai tay cầm hai quả hồng,
    Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.

    Hoặc:

    Đêm nằm ôm gối thở dài,
    Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.

    Đàn bà Bình Định nổi tiếng giỏi võ nghệ, giỏi côn quyền nên ca dao có câu:

    Ai về Bình Định mà coi,
    Đàn bà cũng biết đánh roi, đi quyền.

    Nhưng:

    Ai về Bình Định mà coi,
    Đàn bà Bình Định ra oai đánh chồng.

    Ai mua cây si:

    Ai mua tôi bán cây si,
    Si tôi tốt giống, cành chi chít cành.

    Hễ mà gặp được đất lành,
    Là si phát triển trở thành “siđa”.

    Ca dao trào phúng cũng còn châm biếm những anh chàng sở khanh:

    Yêu em mấy núi cũng trèo,
    Khi em có chửa mấy đèo cũng dông

    Nếu mà anh phải lấy nàng:

    Trên trời có đám mây xanh,
    Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng.

    Nếu mà anh phải lấy nàng,
    Anh thà thắt cổ cho nàng ở không.

    Trên đồng cạn, dưới đồng sâu:

    Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
    Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

    Nhưng:

    Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
    Chồng cày, vợ cấy thằng cu ra đời.

    Thu đi để lại lá vàng:

    Thu đi để lại lá vàng,
    Anh đi để lại cho nàng thằng cu.

    Mùa thu tiềp nối mùa thu,
    Thằng cu tiếp nối thằng cu ra đời.

    Qua đình ngả nón:

    Qua đình ngả nón trông đình,
    Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.

    Nhưng:

    Qua đình ngả nón trông đình
    Nhìn anh ăn mặc thùng thình em chê.

    Đường về đêm tối:

    Đường về đêm tối canh thâu,
    Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười.

    Giỡn chơi chút xíu:

    Gió đưa bụi chuối sau hè,
    Giỡn chơi chút xíu ai dè có con.

    Trách người quân tử:

    Trách người quân tử bạc tình,
    Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.

    Hay:

    Trách người quân tử gian manh,
    Chơi hoa rồi lại hái cành kế bên.

    Chồng đòi “tòm tem”:

    Đang khi lửa tắt, cơm sôi,
    Lợn la, con khóc, chồng đòi “tòm tem”.

    Bây giờ lửa đã cháy rồi,
    Lợn no, con nín “tòm tem” thì tòm.

    Chính chuyên:

    Chính chuyên chết cũng ra ma,
    Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng.

    Hay:

    Chính chuyên lấy được chín chồng,
    Ba chồng thành Lạng, ba chồng thành Cao.

    Ba chồng để ngọn sông Đào,
    Trở về đóng cửa làm cao chưa chồng.

    “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”:

    Thuyền theo lái, gái theo chồng,
    Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.

    Cưới nàng được chăng:

    Kẹo Mỏ Cày vừa thơm, vừa béo,
    Gái Mỏ Cày vừa khéo, vừa ngoan.

    Anh đây muốn hỏi thiệt nàng,
    Làm trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng?

    Trời ở bất công:

    Trời sao trời ở bất công,
    Người ba bốn vợ, người không vợ nào!

    Ba bà tìm nhà bà tư:

    Bà cả, bà bé, bà ba,
    Ba bà dắt díu tìm nhà bà tư.

    “Một vợ nằm giường Lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ ra chuồng heo mà nằm. Thế còn 5 vợ thì sao? Xin thưa:

    Đêm khuya năm vợ ngồi hầu,
    Vợ cả pha nước, têm trầu chàng xơi.

    Vợ hai trải chiếu chàng ngồi,
    Vợ ba coi sóc nhà ngoài, nhà trong.

    Vợ tư sửa soạn giăng mùng,
    Vợ năm dưới bếp trong lòng xót xa.

    Chè thưng, cháo đậu bưng ra,
    Chàng xơi một bát kẻo mà hết gân.

    Đám cưới linh đình:

    Trên trời có đám mây xanh,
    Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.

    Ước gì anh lấy được nàng,
    Hà Nội, Thái Bình sửa đàng rước dâu.

    Thanh Hóa cũng đốn trầu cau,
    Nghệ An thì phải thui trâu, mổ bò.

    Phú Thọ quạt nước hỏa lò,
    Hải Dương rọc lá làm giò, gói nem.

    Tuyên Quang nấu bạc, đúc tiền,
    Ninh Bình dao thớt, Quảng Yên đúc nồi.

    Kiên Giang gánh đá nung vôi,
    Thừa Thiên, Đà Nẳng thổi xôi, nấu chè.

    Quảng Bình, Hà Tĩnh thuyền ghe,
    Sài Gòn, Gia Định chẻ tre bắc cầu.

    Anh mời khắp nước chư hầu,
    Nước Tây, nước Tàu anh gởi thư sang.

    Nam Tào, Bắc Đẩu dọn đàng,
    Thiên Lôi, La Sát hai hàng, hai bên.

    Lê Thương

    Richmond - Virginia
     
  2. Lê Thương

    Lê Thương New Member

    Tham gia ngày:
    Thg 2 7, 2012
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Tết Nguyên đán

    TẾT NGUYÊN ĐÁN

    LÊ THƯƠNG


    Tết Nguyên Đán là ngày lễ truyền thống lớn nhất trong năm của Việt Nam. Ngày Tết không những là ngày thiêng liêng của người Việt mà nó còn mang sắc thái văn hóa đặc thù của dân tộc ta. Trên bầu trời cao, những cánh én đã về, mùa Xuân đã trở lại với vạn vật. Những cành lá trơ trụi của mùa Đông đã chuyển mình với những mầm non, với lá xanh mơn mởn. Trong bốn mùa, Xuân là mùa của ngàn hoa tươi thắm, với những cành lộc non xanh tươi vì thế mùa Xuân được người đời ưa chuộng hơn cả. Trong niềm rạo rực đón Xuân, Hàn Mạc Tử đã sáng tác bài “Mùa Xuân Chín”, xin hãy nghe:

    Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
    Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
    Sột soạt gió trêu tà áo biếc
    Trên giàn thiên lý – bóng xuân sang

    Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
    Bao cô thôn nữ hát trên đồi.
    Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
    Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.

    Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
    Hổn hển như lời của nước mây
    Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,
    Nghe ra ý vị và thơ ngây.


    Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
    Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
    “Chi ấy năm nay còn gánh thóc,
    Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

    Sau 37 năm lưu lạc nơi đất khách quê người, cứ mỗi lần Tết đến người Việt tha hương khắp năm châu cảm thấy lòng nao nao nhớ lại những mùa Xuân êm đềm mang nhiều kỷ niệm nơi cố quốc và cảm thấy thấm thía qua những vần thơ “Xuân Tha Hương” của Nguyễn Bính:

    Bốn biển vẫn chưa yên sóng gió,
    Xuân nầy em chị vẫn tha hương.
    Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ,
    Son sắc say hoài rượu bốn phương.

    . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    Em đi non nước xa khơi quá,
    Mỗi độ Xuân về bao nhớ thương.
    Mỗi độ Xuân về em lại thấy,
    Buồn như tên lính ở biên cương.

    Chữ Tết Nguyên Đán mang các nghĩa: Tết do chữ Tiết, có nghĩa là ngày lễ; Nguyên có nghĩa là bắt đầu; Đán có nghĩa là buổi sớm mai. Vậy Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho một năm mới với nhiều hy vọng và may mắn mới. Đúng ra phải dùng cả ba chữ Tết Nguyên Đán, nhưng người Việt ta có tính giản dị nên chỉ gọi Tết hay Ngày Tết. Chữ Tết được dùng trong nhiều thành ngữ như: Ngày Tư Ngày Tết, Năm Hết Tết Đến, Sống Tết Chết Giỗ, Tết Nhất, Chợ Tết, Ăn Tết, Chúc Tết, Thiệp Tết, Quà Tết, Lương Tết, Tết Thầy, Tết Xếp... Ngày Tết mang rất nhiều phong tục cổ truyền và các phong tục này đã thấm nhuần trong lòng người Việt Nam từ xưa đến nay.

    Sửa Soạn Tết

    Ngay từ đầu tháng Chạp, ở thôn quê cũng như thị thành, thiên hạ đã bắt đầu sửa soạn Tết. Nhà nhà lo mua heo, bò, gà, vịt để sẵn, rồi còn mua nếp, đậu hầu chuẩn bị gói bánh chưng, bánh tét. Ngoài ra còn muối dưa, nén hành, may sắm quần áo mới, sơn phết trang hòang nhà cửa, lau chùi bàn thờ, mua tranh, pháo, câu đối, cùng các loại bánh mứt, trái cây, trà, rượu... Còn những người thích chơi cảnh, chơi hoa như các loại hoa hải đường, hoa mai, bích đào, thủy tiên... phải lo vun trồng, cắt xén để hoa kịp nở vào đầu Xuân. Đa số người Việt Nam chỉ lo ăn Tết có 3 ngày, tuy nhiên nhiều gia đình, nhất là những gia đình khá giả chuẩn bị Tết trong nhiều tháng trước.

    Chợ Tết

    Khoảng trung tuần tháng Chạp, phố xá, chợ búa bắt đầu thêm nhộn nhịp, nhất là các buổi

    chợ cuối năm càng tưng bừng tấp nập, đông đúc kẻ bán người mua. “Đông như chợ Tết”. Vào

    những ngày chợ Tết hàng hóa tràn ngập, nhiều gấp bội ngày thường, nào gian hàng vải, gian hàng bánh mứt, hàng hoa, hàng trái cây, dưa hấu bày bán la liệt. Thấy dưa hấu là thấy Tết. Dưa hấu lềnh khênh, chất cao thành đống. Khách mua cố lựa những trái dưa khi cắt ra ruột đỏ tươi vì người ta cho rằng mua dưa đầu năm lựa đuợc những trái dưa ruột đỏ thắm thi suốt năm gặp tòan những điều may mắn. Còn những người bán thì trưng bày những trái dưa mẫu ruột đỏ au để chiêu dụ khách hàng. Đặc biệt là vào những ngày cận Tết, ta thấy các ông đồ Nho râu tóc bạc phơ gò mình trên những tờ giấy hoa ở vỉa hè hay góc chợ, múa bút viết những câu đối với những nét chữ “Rồng bay, Phượng múa” để bán cho những khách hàng mua về dán ở nhà hay ở bàn thờ.

    Đưa Ông Táo Về Trời

    Một trong những cổ tục của ngày Tết là đưa ông Táo về Trời. Ông Táo là cái bếp nấu cơm trong mọi gia đình. Người ta tiễn ông Táo về Trời bằng bánh mứt, thèo lèo, trà và pháo. Theo truyền thuyết, cứ mỗi năm vào ngày 23 tháng Chạp, ông Táo cỡi cá chép bay về Trời để “báo cáo” với Ngọc Hoàng mọi chuyện xảy ra dưới trần gian trong suốt năm qua.

    Cây Nêu

    Ở thôn quê, thiên hạ bắt đầu dựng cây nêu vào ngày 27 tháng Chạp, trễ lắm là vào buổi chiều ngày 30 Têt, nếu tháng thiếu là ngày 29 và hạ nêu vào ngày mồng 7 tháng Giêng. Nêu là cây tre dài chặt tới gốc còn đủ ngọn lá, được dựng ở trước sân với một cỗ mũ nhỏ và một tảng vàng buộc ngang thân, có nơi treo trên ngọn mấy chiếc khánh và bùa chú mà người ta tin tưởng rằng có thể ngăn cản, xua đuổi tà ma xâm nhập vào nhà để quấy phá gia chủ trong những ngày Tết. Riêng ở thành thị vì nhà cửa phố phường san sát không tiện trồng cây nêu nên ta thường buộc cành đa, lá dứa ngoài ngõ. Có nơi thiên hạ rắc vôi ngoài sân, ngoài cổng với hình bàn cờ, cây cung cùng tên bắn ra đằng trước và hai bên, ngụ ý trấn giữ nhà cửa ngăn chận tà ma.

    Cu kêu ba tiếng cu kêu,
    Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè.

    Vật điển hình thứ hai của Tết là hoa mai. Mai vàng là màu sắc đặc thù của ngày Tết, thấy mai là thấy Tết và mai vàng tạo niềm rạo rực, rộn ràng trong lòng mọi người. Cho nên, dù giàu, dù nghèo thiên hạ nhà nào cũng tạo cho được một cành mai. Giàu có, khá giả không những tạo một nhành mai mà còn rước cả một cây mai to lớn đầy hoa về để trang trí nhà cửa trong những ngày Xuân. Còn nghèo khó không mua nổi một nhánh mai tươi thì cũng phải sắm cho được một cành mai giả để cũng có màu sắc Tết cho gia đình.

    Tết không mai không ai biết Tết,
    Mai không Tết chẳng thiết khoe vàng.

    Vật điển hình thứ ba của Tết là bánh chưng. Tùy theo tục lệ từng miền, người ta có bánh chưng hay bánh tét, đó là hương vị không thể thiếu được của mọi gia đình trong những ngày Tết. Bánh chưng, bánh tét thường được ăn với thịt mỡ, dưa hành hay củ kiệu. Trong lúc nhìn mai vàng nở trên cành, nghe những tràng pháo Tết rộn rã mà ăn một lát bánh chưng hay một khoanh bánh tét với một cục thịt mỡ và một miếng dưa hành là nuốt cả một mùa Xuân dân tộc vào tâm hồn ta vậy.

    Vật điển hình thứ tư của ngày Tết là pháo. Pháo là âm thanh, âm điệu rạo rực nhất của ngày

    Xuân. Nghe pháo nổ là nghe như Tết đang reo vang trong lòng mọi người. Pháo bắt đầu nổ lác đác từ chiều 23 tháng Chạp, ngày đưa ông Táo về Trời. Rồi đến Giao Thừa pháo càng rộ lên cùng một lúc, xen lẫn trong những tràng pháo chuột là những tiếng pháo đại nổ chát chúa, vang rền như những quả đạn pháo kích. Tết đến, từ các cơ sở thương mại cho đến tư gia, nhà nào cũng đốt một vài phong pháo để đón Chúa Xuân. Người ta đốt pháo từ lễ Giao Thừa và vào sáng mồng một, mồng hai, mồng ba. Ngoài ra khi người bạn quý đến “xông đất” chủ nhà cũng mang ra một phong pháo đốt để “nghinh tân” ngược lai, người bạn cũng đốt một phong pháo để “Chúc Xuân” gia chủ. Còn các cơ sở thương mại, những nhà giàu có vào ngày Tết đốt pháo thường có múa lân vì thiên hạ tin tưởng rằng lân đến nhà đầu năm sẽ mang lại thịnh vượng.

    Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ,
    Cây nêu tràng pháo bánh chubng7 xanh.

    Mâm Ngũ Quả

    Mâm ngũ quả thường gồm thơm, đu đủ, dừa, xoài, trái sung. Phải thừa nhận rằng đa số nguời Việt Nam, nhất là giới bình dân mang nhiều sự mê tín, dị đoan rất dễ thương. Vì thế mâm ngũ quả chưng bàn thờ trong những ngày Tết người ta thường chọn những loại trái cây có tên tốt, mang ý nghĩa như thơm, đu đủ, dừa, xoài, sung... vì theo họ, những loại hoa quả nầy tượng trưng cho một năm mới đầy thơm tho, tiền bạc trong nhà đầy đủ và cuộc sống sung túc.

    Tiệc Tất Niên

    Ở thành thi, theo thông lệ, cứ đến cuối năm, thiên hạ thường tổ chức những bữa tiệc tất niên tại các công, tư sở, xí nghiệp, trường học hầu các công tư chức, nhân viên, hoc sinh, sinh viên, thầy cô có dịp họp mặt vui vẻ, chuyện trò thân mật, chúc Tết lẫn nhau trước khi chia tay để về nhà hoặc về quê ăn Tết với gia đình.

    Đưa Rước Ông Bà

    Vào ngày Tết người Việt Nam ta có tục đưa rước ông bà. Trưa hôm 30 Tết người ta làm lễ cúng tất niên đồng thời đón rước ông bà hoặc người thân quá cố để vong linh họ về sum họp với gia đình trong những ngày Xuân. Qua đến ngày mồng bốn, ta tiễn đưa vong linh ông bà về phương cũ.

    Giao Thừa Và Lễ Trư Tịch

    Giao Thừa có nghĩa là cũ giao lại cho mới tiếp nhận. Hết giờ Hợi sang giờ Tý vào lúc nửa đêm 30 Tết là Giao Thừa, thiên hạ làm lễ Trừ Tịch tiễn vị thần năm cũ, đón vị thần năm mới còn được gọi là lễ “Tống Cựu, Nghinh Tân”. Theo cổ tục, người ta tin rằng từ năm Tý đến năm Hợi là 12 năm thì có 12 vị thần Hành Khiển luân phiên nhau, mỗi năm một vị lo trông coi việc nhân gian vì thế mà ta có lễ Trừ Tịch để tiễn đưa và đón các vị thần Hành Khiển của năm cũ và năm mới, đồng thời cầu cúng cả Bản Cảnh Thành Hoàng và Thổ Công Thần Kỳ mà ta có câu tục ngữ “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”.

    Lễ Trừ Tịch ở các làng xã còn giữ cổ tục, người ta thiết lập hương án ở trong trung thiên hoặc nơi sân đình, cũng có khi ở ngã ba làng xã với vàng mã, hương, đèn, trầu, rượu, hoa quả, xôi gà tế lễ rất trọng thể. Trong khi tế lễ, họ đánh trống, khua chiêng, đốt pháo vang dậy trong giờ Giao Thừa. Còn các tư gia cũng cúng lễ Giao Thừa trong sân hay trước cửa nhà với mâm lễ vật đặt trên bàn rồi vái tứ phương. Khi tới Giao Thừa chuông, trống ở các Đình, Chùa, Giáo Đường khắp nơi cũng được đánh lên vang rền kèm theo tiếng pháo đón Giao Thừa nổ giòn giã. Tiếng chuông, tiếng trống, tiếng pháo của giờ Giao Thừa là âm điệu truyền thống của ngày Tết.

    Những kẻ đã từng nghe những âm điệu nầy trong quá khứ, nay vì hoàn cảnh bắt buộc họ phải xa lìa đất mẹ thân yêu, vào đêm Giao Thừa họ thường gục đầu im lặng để chờ nghe lại âm điệu ngày xưa, nhưng giờ Giao Thừa cứ lặng lẽ trôi qua và những âm điệu âu yếm kia vẫn biền biệt, khiến họ hụt hẫng, lòng họ dâng trào niềm nuối tiếc và uất hận, rồi lòng họ cảm thấy nghẹn ngào và đôi dòng lệ tự nhiên tuôn trào thấm ướt bờ mi. Vì ai mà họ đã đánh mất kỷ niệm thân yêu nầy? Vì ai mà họ phải khóc trong những đêm Giao Thừa xa cố quận?

    Về Giao Thừa, nữ sĩ Hô Xuân Hương có hai câu đối như sau:

    Tối ba mươi khép kín càn khôn,
    Kẻo sợ ma vương đem quỷ tới.
    Sáng mồng một lỏng then tạo hóa,
    Để cho thiếu nữ rước Xuân vào.

    Tiền Của Vào Như Nước

    Ở thành thị, phố phường ta có tục lệ sau giờ Giao Thừa, những người gánh nước mướn tự động gánh nước đến những nhà trong hàng xóm một vài đôi nước ngụ ý rằng năm mới gia chủ sẽ làm ăn phát đạt “tiền của vào như nước” và gia chủ vui vẻ thưởng tiền rất hậu. Cũng có những người buôn bán, vào những ngày cận Tết đã ân cần dặn trước những người gánh nước thuê đừng quên gánh nước đổ vào nhà cho mình.

    Đi Lễ Chùa, Giáo Đường Và Hái Lộc

    Sau khi cúng Giao Thừa xong, thiên hạ làm lễ Thổ Công rồi sửa soạn đi lễ tại các Đền, Miếu, Đình, Chùa, Giáo Đường để cầu phúc, cầu may cho năm mới. Ngoài mục đich đi lễ Phật, lễ Chúa, lễ các vị Thần Linh họ còn có dụng ý hái lộc và xin xăm. Hái lộc là một tục lệ nên thơ của người Việt Nam. Người ta tin rằng lộc là lộc của Trời vì thế hái lộc đầu năm sẽ mang lại nhiều may mắn, thịnh vượng cho suốt một năm. Vì lẽ đó mà vào ngày đầu năm thiên hạ già, trẻ, trai, gái chen chúc nhau lên Chùa để hái lộc. Còn xim xăm, đa số người Việt rất tin vào số mệnh nên song song với việc lên Chùa lễ Phật, hái lộc họ còn lên Chùa để xin xăm hầu biết vận mệnh của mình và gia đình mình trong năm mới. Hình thức xin xăm là sau khi van vái Trời, Phật với tất cả lòng thành rồi người ta rút một thẻ xăm trong ống (hoăc lắc cho thẻ xăm rơi ra), đọan mang đến cho người đoán xăm, đôi khi là một thầy bói, đôi khi là một nhà sư để giải đoán dùm những ngụ ý trong quẻ xăm. Hầu hết những người lên Chùa xin xăm vào dịp đầu năm đều ra về với vẻ mặt “vui như ngày Tết” vì những lá xăm của họ đều hứa hẹn những điều tốt đep.

    Xông Nhà, Xông Đất

    Theo cổ tục, vào đầu năm người đến nhà ai trước nhất là người “xông nhà, xông đất” cho gia chủ và thiên hạ tin rằng đầu năm mới được người vui vẻ, dễ tính, tốt nết hoặc những người có tên như: Thương, Mến, Hùng, Dũng, Đẹp, Giàu, Sang, Phú, Quý, Thịnh, Vượng, Tài, Báu, Lợi, Phước, Lộc, Thọ, Có, Tiền, Bạc, Vàng, Triệu, Tỷ, Thơm... đến nhà trước nhất thì gia chủ sẽ được mọi chuyện tốt lành, đẹp đẽ, thịnh vượng, phú quý, may mắn quanh năm. Còn ngược lại, gặp người khẳn tính, cộc cằn, độc ác, khờ dại, ngu ngơ, đần độn hoặc những người có tên như: Nghèo, Khổ, Xấu, Ghét, Ngu, Hư, Thúi, Chết, Xụi, Thua, Lỗ, Nợ, Nần, Túng, Thiếu, Đau, Ốm, Bệnh, Ghẻ, Chốc, Bại, Xụi, Bần, Hàn, Đói, Rách, Gian, Ác... thì suốt năm gia chủ làm ăn lủng củng, thất bại hay gặp những chuyện vẩn vơ, bực mình.... Chinh vì vậy mà các cụ lớn tuổi hoặc những người còn mang nặng cổ tục rất kén chọn người đến xông nhà, xông đất, thường họ mượn người tốt nết, tinh tình dễ thương, có tên đẹp đến xông đất dùm. Còn trong gia đình, sau khi đi lễ Chùa, Nhà Thờ về là xông đất nhà mình và gia đình thường để cho người tốt nết nhất vào nhà trước.

    Theo tục lệ, người đến xông đất đốt một phong pháo và chúc gia chủ mọi điều tốt lành, tùy theo trường hợp, lời chúc có thể:

    •Nếu gia chủ có cha mẹ già thì chúc “Tăng phúc, tăng thọ”

    •Nếu gia chủ là nhà nông thì chúc “Phong đăng hòa cốc”

    •Nếu gia chủ là một nhà công kỹ nghệ thì chúc “Tốt tài sai lộc”

    •Nếu gia chủ là một thương gia thì chúc “Buôn may, bán đắt, nhất bản vạn lợi”

    •Nếu gia chủ là một quân nhân hay công chức thì chúc “Mau thăng quan, tiến chức”

    Trong trường hợp chẳng may gặp người xấu nết, tính tình cộc cằn hay xui hơn nữa bị một

    lão ăn mày đến viếng đầu năm thì gia chủ phải lấy gạo, muối ra vãi tứ phía và cúng vái gọi là

    “đốt phong long” rồi chờ một người khác khá hơn đến “tái xông”

    Mừng Tuổi Và Chúc Xuân

    Một trong những tục lệ đẹp đẽ nhất của người Việt Nam là mừng tuổi ông bà, cha mẹ vào dịp đầu Xuân. Đây là một hình thức hiếu đạo của con cháu đối với công ơn dưỡng dục của các đấng sinh thành đã nuôi dưỡng nên minh mà chỉ Việt Nam mới hãnh diện có cổ tục nầy trên thế giới ngày nay.

    Mừng tuổi là mừng ông bà, cha mẹ thọ thêm một tuổi. Sáng mồng một Tết, sau khi ông bà, cha mẹ khăn áo chỉnh tề, con cháu cũng xúng xính trong những bộ quần áo mới, trải chiếu xuống đất lạy 2 lạy đồng thời chúc ông bà, cha mẹ những lời tốt đẹp, hiếu thảo. Ông bà, cha mẹ cũng chúc lại con cháu ngoan ngoãn, thông minh, chóng lớn, học hành mau đỗ đạt rồi cho con cháu những tờ giấy bạc mới đựng trong những phong bì màu đỏ gọi là tiền “lì xì”, có nghĩa là những đồng tiền may mắn.

    Ngoài tục lệ mừng tuổi, vào ngày Tết thiên hạ còn có lệ chúc Tết lẫn nhau. Nếu ở xa người ta gởi thiệp, còn nếu ở gần bạn bè, họ hàng thăm viếng và chúc Tết với nhau. Những lời chúc thông dụng là “Phước, Lộc, Thọ”, “An Khang, Thịnh Vượng”, “Vạn Sự Như Ý”, “Sống Lâu Trăm Tuổi”, “Tân Xuân Vạn Hạnh”, “Con Đàn, Cháu Lũ”, “Tiền Vào Như Nước”, “Tiền Rừng Bạc Biển”, “Đa Tài, Đa Lộc”, “Mau Thăng Quan, Tiến Chức”...

    Ngoài việc họ hàng, bạn bè thăm viếng chúc Tết lẫn nhau, các nhân viên thuộc quyền ở các Ty, Sở, Đơn Vị vào ngày Tết cũng có lệ đến chúc Tết các xếp của mình. Kèm theo những lời chúc Tết đẹp nhất, họ còn có “quà biếu” cho các xếp họ nữa. Xin hãy nghe bài “Chúc Tết” của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương:

    Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
    Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
    Phen này ông quyết đi buôn cối,
    Thiên hạ bao nhiêu đứa giả trầu.

    Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu,
    Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu.
    Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
    Đồng rụng, đồng rơi lọ phải cầu

    Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang,
    Đứa mua tước, đứa mua quan.
    Phen này ông quyết đi buôn lộng
    Vừa bán vừa la cũng đắc hàng.

    Lẳng lặng mà nghe nó chúc con,
    Sinh năm, đẻ bảy được vuông tròn.
    Phố phường chật hẹp, người đông đúc
    Bồng bế nhau lên nó ở non.

    Kiêng Cữ

    Đa số người Việt Nam ta tin rằng việc gì xảy ra đầu năm thì sẽ liên tục xảy ra suốt năm vì thế ta có rất nhiều tục kiêng cữ trong những ngày Tết:

    Giông

    Giông có nghĩa là xui xẻo, cho nên vào những ngày cuối năm có mượn đồ vật hoặc nợ nần của ai thì phải lo trả vì nếu để sang năm mới người ta đến đòi thì bị “giông”. Vì thế vào những ngày cuối năm, các chủ nợ thường đến đòi tiền các con nợ vì để qua năm mới đến đòi sợ “giông” người vay nợ. Ngược lại, các con nợ Tết đến cũng lo chạy đôn, chạy đáo để thanh toán tiền nợ của mình vì sợ để leo qua năm mới sẽ bị xui và sẽ bị mang nợ suốt cả năm nên ta có câu:

    Khôn ngoan đến cửa quan mới biết,
    Giàu khó ba mươi Tết mới hay.

    Cữ Quét Nhà

    Vào ngày Tết người ta cữ quét nhà trong suốt ngày mồng một, mồng hai và mồng ba vì sợ rằng quét nhà sẽ quét hết tiền bạc, của cải và các điều may mắn ra ngoài. Nều nhà có rác, ta chỉ quét sơ và gom vào một xó để chờ hết Tết rồi mới đem đi đổ.

    Cữ Quần Áo

    Trong những ngày Tết, người Việt ta cữ ăn mặc quần áo trắng hoặc đội khăn trắng vì sợ trong năm sẽ có tang.

    Cữ Ăn Nói

    Vào những ngày đầu năm, người trong gia đình phải hết sức thận trọng về “lời ăn tiếng nói”, chỉ nên dùng những lời lẽ đẹp và tránh những lời nói không hay như khỉ, chết, đau, ốm hay những lời nói tục tằn, chửi thề... để suốt năm không gặp những chuyện xui xẻo.

    Cữ Đánh Con

    Vào ngày Tết cha mẹ phải cữ đánh con cho dù rằng vào những ngày nầy con cái “phá như quỷ” cha mẹ cũng đành dằn lòng vì nếu đánh con trong những ngày Tết thì con sẽ bị “huông”, nghĩa là suốt năm con sẽ bị đòn hoài.

    Ngoài các điều trên, thiên hạ còn kiêng cữ nhiều thứ khác trong ngày Tết như kiêng cãi nhau, kiêng đánh lộn, kiêng gây tiếng động, kiêng làm vỡ chén bát, ly tách, kiêng tiếng khóc dù là tiếng khóc của trẻ con đòi bú sữa. Ngoài việc kiêng cữ những điều “xấu”, người ta còn phải làm những điều “tốt”, đó là tục lệ đi mua muối đầu năm. Muối tượng trưng cho sự đâm đà, mặn mòi. Nhưng ngược lại ta cữ đi mua vôi vì vôi tượng trưng cho sự bạc bẽo, vong ân, bội nghĩa như ta thường nghe câu “ăn ở bạc như vôi” vì thế dân gian có câu tục ngữ “Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi”.

    Bói Toán

    Vào ngày đầu năm người Việt ta thích đi xem bói toán để biết vận mệnh của mình trong năm mới. Bói toán có nhiều cách, như bói Kiều, bói sách, bói tuồng, nhờ thầy bói xem bói dùm... Bói Kiều là lấy cuốn Kiều ra để trên bàn, sau khi thắp hương đèn và khấn vái Nguyễn Du, Thúy Kiều, Kim Trọng rồi người ta lật bất cứ trang nào của Kiều ra xem, những câu thơ sau đây được xem là tốt:

    Dưới dòng suối chảy trong veo,
    Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
    Kiều từ trở gót trướng hoa,
    Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
    Gương nga chênh chếch dòm song,
    Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.

    Đầu năm mà gặp nước, gặp cầu, gặp vàng thì không có gì may mắn, hạnh phước cho bằng. Nước tượng trưng cho tiền bạc nên ta có câu thành ngữ “tiền vào như nước”, còn cây cầu tượng trưng cho sự thông giao, sự liên lạc, sự đoàn tụ và vàng tượng trưng cho sự giàu sang, phú quý.

    Ngược lại những câu thơ sau đây được xem là điềm xấu:

    Hàn huyên chưa kịp giãi giề,
    Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
    Người nách thước, kẻ tay đao,
    Đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi.
    Già giang một lão một trai,
    Một dây vô lại buộc hai thâm tinh.

    Hoặc:

    Sầu đong càng lắc càng đầy.
    Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.

    Đầu năm bói Kiều mà gặp cảnh gia đình tan nát, phân ly hay gặp cảnh “Sầu đong càng lắc càng đây” như trên thì người ta tin rằng đó là điềm xui xẻo.

    Bói sách cũng tương tự như bói Kiều, còn bói tuồng là ngày Tết ta chọn tuồng hát để xem, nếu xem nhằm tuồng kết thúc cốt chuyện bằng sự sum họp, thắng lợi, hạnh phúc, giàu có là điềm may. Còn nếu tuồng hát kết thúc bằng cảnh gia đình tan nát, chia ly, chết chóc là điềm không tốt. Ngoài việc bói Kiều, bói sách, bói tuồng, thiên hạ còn tìm đến các thầy bói để nhờ xem dùm vận mệnh, tình duyên, công ăn, việc làm của mình trong năm mới.

    Khai Bút

    Vào dịp đầu Xuân, người Việt Nam ta có tục lệ tao nhã khác đó là tục lệ Khai But đầu năm. Khai Bút là năm mới cầm bút viết lần đâu tiên. Những người thường hay viết lách như các cụ đồ, các nhà khoa giáp, các văn nhân thi sĩ, các nhà báo vào dịp đầu Xuân chọn ngày giờ tốt lấy giấy mực ra làm thơ, viết văn, ngâm vịnh và thưởng Xuân.

    Khai Quân

    Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, các đơn vị Quân Đội có truyền thống tổ chức Lễ Khai Quân và Lễ Thượng Kỳ Đầu Năm với mục đích phô trương sức mạnh của Quân Đội cũng như nâng cao ý chí và tinh thần của binh sĩ hầu đạt được nhiều thắng lợi cho đơn vị trong năm mới.


    Kính Chúc Quý Vị Độc Giả Một Năm Mới An Khang – Thịnh Vượng

    Lê Thương
     
  3. Lê Thương

    Lê Thương New Member

    Tham gia ngày:
    Thg 2 7, 2012
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Phụ Nữ Việt Nam QUA CA DAO

    Phụ Nữ Việt Nam
    QUA CA DAO
    LÊ THƯƠNG
    Khi đề cập đến phụ nữ Việt Nam, ai ai cũng đều thừa nhận rằng từ ngàn xưa cho đến nay họ là những người đàn bà dịu hiền, thùy mị, đoan trang, đảm đang, trung trinh tiết hạnh, giàu lòng hy sinh. Trong gia đình thì hiếu thảo với cha mẹ, tảo tần lo cho chồng con, ra ngoài là những bậc anh thư liệt nữ. Chính những đức tính đẹp nầy đã nâng cao phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam:
    Phụ nữ Việt Nam trung trinh tiết hạnh,
    Trang điểm cuộc đời muôn cánh hoa thơm.
    Ra ngoài giúp nước, giúp non,
    Về nhà tận tụy chồng con một lòng.
    Trong suốt chiều dài của dòng lịch sử và chiều sâu của lòng dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã liệt oanh viết nên những trang sử vàng son làm vẻ vang giống nòi như Bà Trưng, Bà Triệu; nữ tướng Bùi Thị Xuân của Quang Trung; Cô Giang, Cô Bắc của Việt Nam Quốc Dân Đảng... Còn về thi văn, ta có Bà Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Bà Hồ Xuân Hương, Bà Sương Nguyệt Ánh... đều là những nữ sĩ tài hoa, nức tiếng trên văn đàn, là những cánh hồng tươi thắm trong vườn hoa văn học. Ngoài ra, còn có biết bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác sống một cuộc sống bình thường, thầm lặng nơi thôn trang, xóm làng mà những nét đẹp về tâm hồn của họ được dân gian ca tụng bằng những áng văn, những vần thơ, điệu hát, câu hò hay qua những vần ca dao phong phú.
    Đề cập đến văn chương, chúng ta không thể nào bỏ qua nền thi ca bình dân mà ca dao là một trong những thể loại quen thuộc nầy. Từ lâu, ca dao đã đi vào lòng dân tộc và lạc vào rừng ca dao của kho tàng văn học, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam qua những đức tính cao quý của họ:
    Nói đến phụ nữ Việt Nam, trước hết phải nói đến lòng hiếu thảo đối với mẹ cha và tiết hạnh đối với bản thân. Không phải chỉ có một nàng Kiều của cụ Nguyễn Du mới biết báo hiếu
    mà bất cứ người con gái Việt Nam nào cũng đều nhớ đến ơn sinh thành, công lao nuôi dưỡng bao la của đấng song thân:
    Công cha như núi Thái Sơn,
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
    Một lòng thờ mẹ, kính cha,
    Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
    Đó là đối với cha mẹ, còn đối với bản thân thì:
    Trai thời trung hiếu làm đầu,
    Gái thời tiết hạnh làm câu trao mình.
    Người phụ nữ Việt Nam, ngay từ lúc còn ẵm ngửa cho đến khi biết lật, biết bò lớn dần trong nhịp võng đưa qua tiếng hát của bà ru cháu, mẹ ru con, chị ru em:
    Nhà Bè nước chảy chia hai,
    Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
    Hay qua điệu hát ầu ơ:
    Ầu ơ... Bao giờ Chợ Quán hết vôi,
    Thủ Thiêm hết giặc, em thôi đưa đò.
    Bắp non mà nướng lửa lò,
    Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm.
    Hoặc qua điệu ru ạ ờ:
    Ạ ờ... Cái ngủ mày ngủ cho lâu,
    Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về.
    Bắt được con cá rô, trê,
    Tròng cổ lôi về cho cái ngủ ăn...
    Những vần ca dao mộc mạc, bình dị đã đưa em bé gái Việt Nam vào giấc ngủ an bình và từ ngày nầy qua ngày khác, tiếng ru lắng đọng, thẩm thấu vào tiềm thức của em bé nên sau nầy lớn lên thành chị, thành mẹ, thành bà lại hát để ru em, ru con, ru cháu theo nhip võng đưa kẽo kẹt đều đều.
    Hát ru em, hát ầu ơ, ạ ờ là một điệu hát thông dụng được phổ biến từ thôn xóm, làng mạc
    cho đến thị thành. Hát ru em là một bản trường ca bất tận của kho tàng văn chương Việt Nam. Vào những buổi trưa vắng lặng hay những đêm khuya yên tĩnh, cùng với tiếng võng đưa, giọng hát ầu ơ, ạ ờ dịu dàng, trìu mến của bà, của mẹ, của chị vang mãi trong lòng đứa trẻ ấu thơ. Tiếng võng đưa kẽo kẹt đều đều cùng với tiếng hát đã văng vẳng từ bao thề hệ trên đất nước Việt Nam theo dòng sinh mệnh của dân tộc. Trải qua bao nhiêu thế hệ, trong mọi gia đình, nghèo cũng như giàu, cái nhịp đều đều của tiếng võng đưa không bao gời dứt. Không có người Việt Nam nào không từng hơn một lần nằm võng và tiếng võng đưa hòa cùng tiếng trẻ khóc, tiếng hát ru đã trở thành điệu nhạc muôn đời của dân tộc ta.
    Thấm thóat, em bé gái Việt Nam nho nhỏ ngày nào nay đã lớn dần và có thể giúp đỡ mẹ những công việc lặt vặt. Một đôi khi lầm lỗi trong công việc bị mẹ quở mắng hay đánh đòn, em không bao giờ dám oán trách mẹ. Nếu bị quở mắng thì nhỏ nhẹ rằng:
    Mẹ ơi đừng mắng con hoài,
    Để con bẻ lựu, hái xoài mẹ ăn.

    Còn nếu bị đánh đòn, nàng chỉ thỏ thẻ:
    Mẹ ơi đừng đánh con đau,
    Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.
    Theo thời gian, cô bé Việt Nam bây giờ đã trở thành thiếu nữ dậy thì, trước khi lấy chồng, một đôi lúc ngồi nhìn những hạt mưa rơi, nàng nghĩ vẩn vơ:
    Thân em như hạt mưa rào,
    Hạt sa xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
    Hay bâng khuâng tự hỏi:
    Thân em như tấm lụa đào,
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
    Ngồi cành trúc, tựa cành mai,
    Đông đào , tây liễu biết ai bạn cùng?
    Đến tuổi dậy thì, phụ nữ Việt Nam trổ mã, đẹp dần lên. Mỗi nàng một vẻ đẹp riêng, người thì đẹp qua đôi mắt, người khác đẹp ở mái tóc, có cô đẹp qua nụ cười, cô khác đẹp bằng hai má lúm đồng tiền, có người đẹp với chiếc eo thon thon, dáng đi yểu điệu, có người đẹp trừu tượng qua tâm hồn... Tóm lại, mỗi người một vẻ để làm rung động hay làm xao xuyến con tim của người khác phái.
    Những phụ nữ có đôi mắt lá răm, lông mày lá liễu được ca dao khen rằng:
    Những người con mắt lá răm,
    Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
    Hay những người có làn da trắng nõn, má lại hồng hồng, môi đỏ thắm:
    Ai xui má đỏ, môi hồng,
    Để anh nhác thấy đem lòng thương yêu.
    Đã đẹp mặt mà còn đẹp về vóc dáng nữa thì “chim phải sa, cà phải lặn” cho nên những phụ nữ có chiếc eo thon thon:
    Những người thắt đáy lưng ong,
    Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.
    Mái tóc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc trang điểm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam:
    Tóc em dài em cài bông hoa lý,
    Miệng em cười anh để ý anh thương.
    Mái tóc dài, đẹp còn làm xao xuyến lòng người:
    Tóc đến lưng vừa chừng em bới,
    Để chi dài bối rối dạ anh.
    Nụ cười là nét duyên dáng, nét quyến rũ của người phụ nữ. Từ xưa cho đến nay có rất nhiều đàn ông đã chết vì nụ cười của phái đẹp:
    Trăng rằm mười sáu trăng nghiêng,
    Thương em chúm chím cười duyên một mình.
    Cũng thế, ta thường nghe ai đó ngâm hai câu ca dao:
    Nàng về nàng nhớ ta chăng,
    Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười.
    Và ca dao cũng không quên ca tụng nét đẹp tâm hồn của phụ nữ Việt Nam:
    Chim khôn hót tiếng rảnh rang,
    Người khôn ăn nói dịu dàng dễ thương.
    Phụ nữ Việt Nam vốn cháu con Quốc Mẫu Âu Cơ, dòng dõi tiên nên nhu mì, thùy mị được tiếng là đẹp, rất đẹp, nhất là trong chiếc áo dài tha thướt với vành nón lá che nghiêng nghiêng mái tóc xõa bờ vai. Có biết bao nhiêu chàng trai đã trồng cây si ở cổng trường Trưng Vương, Gia Long, Đồng Khánh, Sương Nguyệt Ánh, Bùi Thị Xuân... vì những tà áo dài thướt tha nầy và mái trường đã từng là chứng nhân của những mối tình đẹp tựa bài thơ, đẹp như đêm trăng huyền ảo. Trước cái đẹp của phụ nữ Việt Nam, mấy ai thuộc phái nam đã không từng cất giấu trong tim một bóng hồng của thời yêu thương ướt át:
    Một thương tóc bỏ đuôi gà,
    Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
    Ba thương má lúm đồng tiền,
    Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
    Năm thương cổ yếm đeo bùa,
    Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
    Bảy thương nết ở khôn ngoan,
    Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
    Chín thương em ở một mình,
    Mười thương con mắt đưa tình với anh.
    Nét đẹp của phụ nữ Việt Nam còn làm cho trái tim nhà vua đập sai nhịp vì bị “tiếng sét ái tình”:
    Kim Luông có gái mỹ miều,
    Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.
    Dân tộc Việt Nam là dân tộc hiền hậu, hiếu hòa, cần cù nhẫn nại lại trọng đạo lý cho nên khi con cái vừa lớn khôn thì được gia đình, nhà trường, xã hội dạy những bài học luân lý về cung cách ở đời, ăn ở có nhân có nghĩa theo đạo lý làm người và phụ nữ Việt Nam cũng được giáo huấn:
    Con ơi mẹ bảo con này,
    Học buôn, học bán cho tày người ta.
    Con đừng học thói điêu ngoa,
    Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
    Nhờ được giáo huấn cho nên phụ nữ Việt Nam đoan trang, thùy mị, nết na:
    Sáng nay tôi đi hái dâu,
    Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.
    Hai anh đứng dậy hỏi han,
    Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu?
    Thưa rằng tôi đi hái dâu,
    Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn.
    Thưa rằng bác mẹ tôi răn,
    Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
    Và xa hơn nữa:
    Ở nhà còn mẹ, còn cha,
    Lẽ đâu tôi dám nguyệt hoa cùng người.
    Phụ nữ Việt Nam khi đến tuổi bước vào con đường yêu đương thì yêu nhẹ nhàng, kín đáo. Nhẹ nhàng đến nỗi tình yêu của nàng len lén len lỏi vào tim hồi nào mà chàng trai không hay:
    Vói tay ngắt lấy cọng ngò,
    Thương anh muốn chết giả đò ngó lơ.
    Giả đò ngó lơ, e thẹn, bẽn lẽn, len lén ngó mà không dám ngó lâu là những cử chỉ yêu đương nhẹ nhàng, kín đáo rất dễ thương của người phụ nữ Việt Nam:
    Ngó anh không dám ngó lâu,
    Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi.
    Nhưng khi đã yêu thì phụ nữ Việt Nam yêu một cách đứng đắn, yêu đậm đà, tha thiết với tất cả con tim mình:
    Qua đình ghé nón trông đình,
    Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
    Tình yêu của nàng còn sâu đậm hơn nữa:
    Yêu chàng lắm lắm chàng ôi,
    Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than.
    Khi yêu, ngoài tình yêu đậm đà, tha thiết, phụ nữ Việt Nam lại còn chung tình:
    Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
    Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền.
    Và chung tình cho đến chết vẫn còn chung tình:
    Hồng Hà nước đỏ như son,
    Chết thì chịu chết, sống còn yêu anh.

    Trước khi lấy chồng, phụ nữ Việt Nam cũng có thừa thông minh để lựa chọn ý trung nhân:
    Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
    Bõ công trang điểm má hồng lâu nay.
    Hay mượn những vần ca dao nhắn nhủ với giới mày râu rằng muốn kết duyên vợ chồng, gá nghĩa trăm năm với phụ nữ Việt Nam thì:
    Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ,
    Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu.
    Anh về học lấy chữ nhu,
    Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
    Đến ngày bước lên xe hoa về nhà chồng, phụ nữ Việt Nam không quên lạy tạ ơn sinh thành của cha mẹ:
    Lạy cha ba lạy, một quì,
    Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy chồng.
    Khi cất bước ra đi về làm dâu nhà chồng, một lần cuối nàng cố ghi lại những kỷ niệm của thời thơ ấu vào tâm khảm:
    Ra đi ngó trước, ngó sau,
    Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng.
    Rồi lúc đã có chồng, người phụ nữ Việt Nam luôn luôn tâm niệm:
    Chưa chồng đi dọc, đi ngang,
    Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.
    Hay:
    Đã thành gia thất thì thôi,
    Đèo bòng chi lắm tội Trời ai mang.
    Lấy chồng, người phụ nữ Việt Nam đẹp duyên cùng chồng:
    Trầu vàng ăn với cau xanh,
    Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.
    Và có hình ảnh nào đẹp hơn vợ chồng hạnh phúc trong cảnh thanh bần:
    Râu tôm nấu với ruột bầu,
    Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.
    Dù nghèo, thanh bần nhưng phụ nữ Việt Nam học theo triết lý an phận, vẫn chung tình với chồng, không đứng núi nầy trông núi nọ:

    Chồng ta áo rách ta thương,
    Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.
    Tinh thần chịu khó, chịu cực và khuyến khích chồng ăn học cho thành tài được diễn đạt qua những vần cao dao làm nổi bật đức tính hy sinh của phụ nữ Việt Nam:
    Canh một dọn cửa, dọn nhà.
    Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.
    Canh tư bước sang canh năm,
    Anh ơi dậy học chớ nằm làm chi.
    Mốt mai chúa mở khoa thi,
    Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh.
    Bõ công cha mẹ sắm sanh,
    Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành.
    Đã có chồng con, người phụ nữ Việt Nam lại càng đảm đang, vừa lo cho con vừa lo toan mọi công việc nhà chồng:
    Có con phải khổ vì con,
    Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
    Hoặc:
    Có con phải khổ vì con,
    Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.
    Có con, người phụ nữ Việt Nam lại gánh thêm trách nhiệm làm mẹ với tình mẫu tử thiêng liêng:
    Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
    Năm canh chầy thức đủ năm canh.
    Tình mẫu tử của những bà mẹ Việt Nam bao la như trời bể, luôn luôn bảo bọc, che chở cho con:
    Nuôi con chẳng quản chi thân,
    Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.
    Ngoài ra, phụ nữ Việt Nam còn phải đối diện với cảnh làm dâu nhà chồng. Trước đây, xã hội ta đã quan niệm sai lầm rằng người con dâu phải phục vụ gia đình nhà chồng gần như một người đầy tớ và một số bà mẹ chồng rất khắc nghiệt với nàng dâu gây nên nhiều cảnh thương tâm cho người phụ nữ Việt Nam. Tự Lực Văn Đoàn đã đưa ra nhiều cuốn tiểu thuyết luận đề để đả phá quan niệm sai lầm nầy và ca dao ta cũng lên tiếng thở than dùm cho các nàng dâu Việt Nam:
    Làm dâu khổ lắm ai ơi,
    Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than.
    Còn nếu đất nước gặp thời chinh chiến, người phụ nữ Việt Nam không bịn rịn mà hăng hái khuyến khích chồng hành trang lên đường trả nợ núi sông:
    Anh đi em ở lại nhà,
    Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ.
    Lầm than bao quản muối dưa,
    Anh đi anh liệu chen đua với đời.
    Phụ nữ Việt Nam, ngoài những đức tính đảm đang, giàu lòng hy sinh, nết na, thùy mị còn là người con rất mực hiếu thảo:
    Ơn cha nặng lắm ai ơi,
    Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang,
    Lòng nhớ công ơn cha mẹ sinh thành, nuôi dưỡng của người phụ nữ Việt Nam còn đươc diễn đạt qua mấy câu:
    Ân cha lành cao như núi Thái
    Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi.
    Dù cho dâng trọn một đời,
    Cũng không trả hết ân người sinh ta.
    Những món quà nho nhỏ như buồng cau, đôi giày nhưng nói lên lòng hiếu thảo, lòng nhớ ơn công cha nghĩa mẹ của người phụ nữ Việt Nam:
    Ai về tôi gởi buồng cau,
    Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy
    Hay là:
    Ai về tôi gởi đôi giày,
    Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
    Khi phải đi xa hay lấy chồng xa, người phụ nữ Việt Nam luôn luôn tưởng nhớ về mẹ cha:
    Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
    Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
    Phụ nữ Việt Nam còn gắn liền với dân tộc và lịch sử vì thế khi tổ quốc lâm nguy, khi sơn hà nguy biến người phụ nữ Việt Nam hăng hái đưa vai gánh vác giang sơn như trường hợp Bà Trưng, Bà Triệu và những vị anh hùng liệt nữ khác.
    Hai chị em Bà Trưng là Trưng Trắc và Trưng Nhị, quê quán làng Cổ Lai, đất Mê Linh. Lúc ấy nước nhà đang bị người Tàu cai trị bằng chính sách hà khắc khiến dân ta vô cùng khốn khổ. Rồi vào năm 40, sau Tây Lịch, Thái Thú Tô Định lại bắt giết ông Thi Sách, chồng Bà Trưng Trắc làm cho nợ nước chồng chất thêm thù nhà cho nên Bà Trưng Trắc cùng em là Bà Trưng Nhị đứng lên chiêu tập binh mã, anh hùng hào kiệt khắp nơi để đánh đuổi quân xâm lăng bạo tàn. Quân binh của Hai Bà chiến đấu rất dũng mãnh, chiếm được 65 thành, đánh đuổi quân Tô Định chạy về Tàu. Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, dân chúng tôn Bà Trưng Trắc lên làm Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Đến năm 42, vua Tàu là Quang Vũ nhà Đông Hán sai Mã Viện kéo quân qua phục thù. Trước địch quân hùng hậu, quân ta chống cự không lại nên Hai Bà đã gieo mình xuống giòng Hát Giang tuẫn tiết. Không có hình ảnh nào vừa hào hùng, vừa lãng mạn cho bằng hình ảnh của hai vị liệt nữ anh hùng gieo mình xuống giòng nước trả nợ núi sông và để lại gương “Thiên thu thanh sử hữu anh thư”. Hai Bà Trưng làm vua được 3 năm, từ năm 40 đến năm 43. Khi vua Tự Đức đọc đoạn sử Hai Bà Trưng, ngài đã ngự phê: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách”. Và Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã ghi lại công nghiệp của Hai Bà bằng những vần ca dao lịch sử:
    Bà Trưng quê ở Châu Phong,
    Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên.
    Chị em nặng một lời nguyền,
    Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
    Ngàn Tây nổi áng phong trần,
    Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên,
    Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
    Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành.
    Còn Bà Triệu, tên thật là Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa vào năm 248, sau Tây Lịch để chống lại quân xâm lăng Đông Ngô của Tàu. Bà còn trẻ nhưng rất can đảm, Bà thường nói: “Tôi muốn cỡi gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém kình ngư ở biển đông, quét sạch bờ cõi để cứu dân cứu nước chứ không thèm bắt chước người đời còng lưng làm tì thiếp người ta”. Ra trận Bà cỡi voi mặc giáp vàng trông rất oai phong làm quân Ngô khiếp sợ. Nghĩa binh tôn Bà là Nhụy Kiều Tướng Quân. Bà Triệu đã anh dũng đền nợ nước khi Bà mới có 23 tuổi:
    Ru con, con ngủ cho lành,
    Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.
    Muốn coi lên núi mà coi,
    Có Bà Triệu Tướng cỡi voi bành vàng.
    Bà Trưng, Bà Triệu là những bậc nữ lưu anh hùng đầu tiên trong lịch sử thế giới nổi lên sớm nhất chống ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc. Rất lâu về sau nầy nước Pháp mới có nữ anh hùng Jeanne D' Arc nhưng sự nghiệp của Bà Jeanne D' Arc cũng không lẫm liệt bằng công nghiệp to lớn, lẫy lừng của Bà Trưng, Bà Triệu. Thật xứng đáng:
    Phấn son tô điểm sơn hà,
    Làm cho tỏ mặt đàn bà Việt Nam!
    Mẹ tôi là phụ nữ Việt Nam, tôi rất hãnh diện được làm một người con của phụ nữ Việt Nam. Tôi hết lòng kính yêu mẹ tôi và tôi cũng hết lòng kính mến người phụ nữ Việt Nam qua những cái đẹp và những đức tính cao quý của họ.

    LÊ THƯƠNG
    Richmond - Virginia


    Bài gởi đăng không nhuận bút.
    Nếu bài may mắn được đăng,
    xin quý báo vui lòng cho tác giả
    xin 1 tờ báo để làm kỷ niệm.
    Thành thật cám ơn quý báo.


    Lê Thương
    6316 Rigsby Road
    Richmond, VA 23226
    Phone: (804) 986-7865
    E-mail: lethuong2007@hotmail.com
     

Chia sẻ trang này

Share