Đinh Hùng viết bài “Hương“ bằng thể thơ mới 7 khổ 28 câu, còn tôi nhân đó cảm hứng sang bài thơ khác bằng thể song thất lục bát cũng 7 khổ 28 câu. Nếu các bạn có thời gian so sánh từng khổ từng câu cả hai bài thơ, sẽ thấy sự khác biệt nhau rõ rệt, ý lời câu chữ nhưng tâm hồn vẫn đồng điệu hòa nhịp cho nhau. Thơ song thất lục bát theo tôi là thể khó làm nhất. Anh phải từ cái nền móng cơ bản là thơ đường luật, thơ 7 chữ, thơ lục bát thật nhuần nhuễn mới nên bắt tay vào viết song thất lục bát. Nếu không anh sẽ lạc vận bởi vần trắc. Trong lịch sử thơ song thất lục bát có 2 vị đại tổ sư đó là tướng công Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều và nữ sĩ Hồng Hà tức Đoàn Thị Điểm: “Trải vách quế gió vàng hiu hắt Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng Oán chi những khách tiêu phòng Mà xui phận bạc nằm trong má đào?“ Nói như cụ Đào Duy Anh: Ngôn ngữ trong Cung oán ngâm khúc hết sức tài hoa, đài các, tinh xác và nhuần nhị, dùng nhiều chữ Hán và điển tích, điển cố như: gió vàng hiu hắt, lạnh ngắt như đồng, thân phù thế, mùi tục luỵ, mồi phú quý, bả vinh hoa, cánh buồm bể hoạn… Câu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt xảo, âm điệu góc cạnh và dữ dội, dùng nhiều ngoa ngữ; mỗi câu thơ như dao khắc chạm vào đá gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ: “Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió Áo vũ kia lấp ló trong trăng“ hay Thân này uốn éo vì duyên Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời!“ Đó là những câu thơ "kinh nhân" mà Đỗ Phủ xưa kia muốn đạt tới.Thể thơ song thất lục bát làm cho nhạc điệu của Cung oán ngâm khúc hết sức réo rắt bởi sự hoà thanh của hai vần trắc ở hai câu 7 (nghe gay gắt) và sự hoà hoãn ở hai câu 6 - 8 (nghe êm dịu hơn). Vì thế Cung oán ngâm khúc được làm ra không phải để đọc mà là để ngâm nga. Lu Hà tôi rất tâm đắc với nhận xét tinh tế của học gỉa Đào Duy Anh. Hay như bà Đoàn Thị Điểm, có người bảo của Phan Huy Ích: “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Xanh kia thăm thẳm tầng trên, Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?“ Chỉ nhìn 4 câu mở đầu tôi đã biết ngay Nguyễn Gia Thiều đáng là bậc thặng thừa Qủy Cốc Tiên Sinh, còn Đoàn Thi Điểm và Phan Huy Ích chỉ đáng là bậc Trương Nghi và Tô Tần. Cám ơn cô Trần Thu Hà đã ngâm thơ Đinh Hùng và thơ tôi. Về phần thơ Đinh Hùng tôi xin miễn bình giảng mà tập trung vào bình giảng giải thích tường tận ý nghĩa từng khổ thơ tôi đã làm như thường lệ. Hương Ái Tình Muôn Thuở Cảm dịch thơ Đinh Hùng: Hương Hình như điểm xuất phát của Đinh Hùng là từ một cô gái nào đó có tên là Hương? Hay ám chỉ một cô gái nào đó mang tên một loài hoa phảng phất mùi hương vị của ái tình. Tôi không hề họa lại thơ anh mà tôi làm công việc chuyển dịch. Giống như Đặng Trần Côn viết Chinh Phụ Ngâm bằng tiếng Hán thì bà Đoàn Thị Điểm chuyển dịch ra song thất lục bát bằng chữ Nôm. Nếu cùng một ngữ âm nhưng thơ viết trải rộng tâm hồn mênh mông lai láng theo cảm xúc riêng của tác giả cũng nên dùng chữ chuyện dịch hay dịch thơ như dịch tiếng nước ngoài vậy. Cái tuyệt vời của thơ song thất là bởi hai câu song thất đó. Người nghệ sĩ sẽ ngâm cao vút lên rồi nhẹ nhàng hạ xuống bởi hai câu lục bát mềm mại hài hoà tạo nên cung bậc ai oán thê lương nức nở tang thương rầu rĩ u hoài khác thường, thật lạ lùng của ngôn ngữ thanh dấu tiếng Việt. Nhất là giọng Huế với lối ngâm thơ tao đàn cung đình quả thật là một phong cách thưởng thức nghệ thuật âm nhạc qúy phái đài các trí tuệ lịch lãm cao sang. “Mùi hương mát lịm yêu thương qúa Phảng phất hoang xơ vũ trụ tình Bềnh bồng sợi nắng rung rinh Bướm hoa thuê thỏa chúng mình từ đây“ Người vui cảnh cũng vui, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Người say cảnh cũng say tình, thiên nhiên vũ trụ cùng thông cảm đồng điệu với người. Vũ trụ bao gồm mọi thành phần như không gian và thời gian. Vũ trụ bao gồm các hành tinh, sao, thiên hà, cả những hạt hạ nguyên tử nhỏ nhất, và mọi vật chất và năng lượng. Con người là trung tâm của vũ trụ. “Mặt nhìn mặt ngất ngất ngây bối rối Nào tích xưa truyện mới đồng lòng Lặng hồn đáy nước xanh trong Lục bình tăm cá theo dòng đời trôi“ Tích xưa truyện cũ là những câu chuyện tình thành giai thoại, những điển tích điển cố trong bách khoa toàn thư hay các sách lịch sử ghi chép lại. Muốn hiểu sâu thêm mời các bạn nghe đối thoại thơ giữa Lu Hà và nữ sĩ Thi Nguyên: Lời Thi Nguyên: Chuyện xưa tích cũ để đời. Có nàng thiếu phụ tên thời Nam Xương. Khen thay tiết hạnh phi thường... Hoàng Giang giòng nước tìm đường rưả oan. Hay chi, xấu thiếp hổ chàng. Giòng thơ thanh nhã chưá chan ân tình. Sự đời chia xẻ, muội huynh... Chuyện người xin được lặng thinh miễn bàn. Để cho tâm được thanh nhàn. Để cho thân khỏi khóc than luỵ phiền. Giòng đời dẫu có đảo điên... Tình người viễn xứ vẫn liền cánh nhau 17.12.2011 Thi Nguyên Thì Lu Hà đáp lại: Mặn Mà Hương Thu Nhớ xưa cũng có Mạnh Khương Nhỏ dòng máu đỏ đống xương tìm chồng Ngàn năm sử sách cảm thông Huynh đây bái phục má hồng thuyền quyên Ngày nay lại có Thi Nguyên Anh hào nữ kiệt chính chuyên thờ chồng Lu Hà đâu dám chờ mong Để nàng thương hại ra phường mèo hoang Thướt tha yểu điệu tinh tường Con nhà gia giáo tiết đường phỉ phong Vào ra nề nếp minh thông Một hai sớm tối thong dong cưả nhà Bộn bề nhưng vẩn la đà Vần thơ tao nhã trăng ngà nỉ non Cuối năm ngũ quả mâm son Ngọt ngào hương vị tổ tôn họ hàng Kiếp này duyên phận lỡ làng Ca ca muội muội trong làng thơ hoa Dập dìu biển cả sóng xa Chuyện xưa tích cũ mặn mà hương thu... 17.12.2011 Lu Hà “Nhìn lơ đãng bồi hồi thổn thức Trưa nắng hè rạo rực tiếng ve Ai hay đôi trẻ lắng nghe Líu lo chim hót thuyền ghe bến nào ?“ Thuyền là những phương tiện giao thông trên mặt nước, hoạt động bằng sức người, sức gió, hoặc gắn theo động cơ là máy nổ loại nhỏ. Thuyền dùng để chở người hay hàng hóa, vật dụng. Thuyền lớn, hoạt động bằng máy móc, thường gọi là tàu, tàu thủy. Thuyền nhỏ: thuyền độc mộc, thuyền nan, thuyền tam bản (xuồng ba lá), thuyền thúng. Xuồng (tiếng Bắc) hay là ghe (tiếng Nam) là một loại thuyền nhỏ và hẹp, thường được chèo bằng sức người, đôi khi được lắp thêm động cơ (lúc đó gọi là xuồng máy Muốn hiểu thêm ý nghĩa của thuyền hay ghe trong văn học Việt Nam xin mời các bạn đọc: Chập Chờn Vì Sao chuyển thể thơ Vũ Hoàng Chương: Phương Xa Nhổ neo theo sóng ra khơi Thuyền ta lạc hướng chơi vơi cuối trời Về Đông hay giạt phương Đoài Nỗi lòng cay đắng tả tơi rã rời Cô đơn dăm bảy lạc loài Quê hương ruồng bỏ giống nòi coi khinh Thuyền tình bể ái lênh đênh Mênh mông vô tận dập dềnh hư vô Sá chi thế kỷ lu mờ Đầu thai nhầm lối chơ vơ đợi chờ Thuyền đừng ghé bến hoang sơ Không dung kiêu bạc mịt mù tương lai Men đời ngây ngất trần ai Hắt hiu buồm rách canh dài lệ chan Thuyền ơi theo gió hãy ngoan Phương xa lạc lõng hoang tàn vì sao... 31.3.2012 Lu Hà “Cây phượng vĩ lao xao trong gió Đỏ hồng xinh em ngó mắt anh Chau mày rạng liễu nét thanh Nụ hôn dè dặt sao đành lặng im “ Phượng vĩ rạng liễu nét thanh của lông mày con gái thiết tưởng quá dễ hiểu miễn giải thích. Đây là lối tả tình tượng trưng siêu hình học hay nói trong triết học hiện sinh. “Em ghì chặt đắm chìm trong mộng Vòng tay anh dang rộng ôm lưng Vuốt ve âu yếm chẳng dừng Bờ môi mềm mại lưng chừng mây bay“ Khổ này câu chữ dễ hiếu. Tự cảm nhận ý tứ cảm xúc của thơ, miễn giải thích nhiều. “Cả trời đất đắm say cò lả Núi đồi xa muôn ngả dặm trường Trúc mai thề nguyện yêu đương Đỗ Quyên trống mái bên đường ngẩn ngơ“ Việt Nam có chim Đổ Quyên hay chim Cuốc. Bên bờ sông Dương Tử có chim Thư Cưu thường sống từng đôi như một cặp vợ chồng. Khổng Tử biên soạn trong kinh thư có câu rất hay: “Quan quan thư cưu Tại hà chi châu Yểu điệu thục nữ Quân tử hảo cầu.“ “Ứa giọt lệ bài thơ muôn thuở Ngàn năm sau còn nhớ thanh âm Trần gian cát bụi âm thầm Vẳng nghe trong gió giọng ngâm u hoài…!“ 15.1.2017 Lu Hà Bốn câu kết là cả một sợi dây ân tình liên đới Đinh Hùng, Lu Hà và Trần Thu Hà là người ngâm thơ. Cám ơn Thu Hà đã ngâm thơ tặng Lu Hà và các bạn nghe trong facebook. Một kỷ niệm tuyệt vời trên quán trọ trần gian. 18.2.2017 Lu Hà