Đoạn Trường Sầu Ly (7) “Nghĩa tình bao kiếp phiêu diêu Kiếp này lại nối thêm nhiều kiếp sau Dù cho cây cỏ nát nhàu Đá vàng ta vẫn giữ màu thủy chung Đan Siêu thương cảm vô cùng Bạc đầu chi để não nùng phấn son Vườn nhà chim hót véo von Thiếp chàng tươi trẻ nước non muôn vàn“ Đan Siêu là một danh tướng đời Hán, suốt đời trấn giữ ở biên cương xứ Tây Vực 31 năm dài đằng đẵng, lập nhiều chiến tích công trạng khi về nhà đã quá 81 tuổi. “Theo chàng như bóng mây ngàn Đi đâu thiếp cũng nồng nàn thiết tha Lên lầu cùng ngắm trăng ngà Mọi bề trung hiếu mẹ cha an lòng Tiếc rằng vó ngựa long đong Thuyền Vu tắm máu lại mong tai thù Nhục Chi thảm cảnh âm u Tý dân ngả ấy thiên thu ưu phiền“ Người vợ lính tự độc thoại tâm sự với cái bóng của mình hàng đêm trước ngọn đèn dầu rằng trái tim nàng, tình yêu chung thủy luôn dành cho chồng, dù nay phải xa cách ngàn trùng, nhưng hy vọng một ngày chàng sẽ lành lặn trở về. Vợ chồng sẽ yêu nhau đằm thắm hơn xưa. Nhưng tiếc rằng chiến sự còn đang căng thẳng với quân rợ Hung Nô mà Thuyền Vu là lãnh chúa. Lệnh vua ban xuống tướng sĩ hễ ai lấy được đầu giặc chỉ cần xẻo vành tai trái mang về sẽ được trọng thưởng. Nhục Chi là một xứ khỉ ho cò gáy, rừng sâu nước độc một nước nhỏ ở miền Tây Vực. Tý dân là hành động dũng cảm che chở cho dân lành thuộc lãnh thổ Hán sát với các nước lân bang như Hung Nô, Nhục Chi, Lâu Lan v. v… “Siêu Sùng, Ngụy Phổ sầu miên Mẫu đơn vàng tía thay phiên úa màu Công danh huân tước chen nhau Chữ đồng bia đá trước sau mấy hồi Thê phong ấm tử đền bồi Ấn vàng mũ áo ghế ngồi cao sang Lạc Dương hổ thẹn bẽ bàng Lao nhao một lũ kém chàng một khi“ Theo điển tích nhà Siêu Sùng hay có người gọi là Diêu Sùng có hoa mẫu đơn vàng tiếng Hán Việt là “hoàng“, nhà Ngụy Nhân Phổ có hoa mẫu đơn màu tía gọi là“tử“ mọi người đều gọi là Diêu Hoàng hay Siêu Hoàng và Ngụy Tử. Nói đến công danh huân tước là ước mơ của các bậc nam nhi theo lời khuyên của Khổng Tử. Làm trai phải đánh đông dẹp bắc để tiếng thơm cho non sông. Tu thân tề gia bình thiên hạ mà không tránh khỏi những bi cảnh tang thương như câu chuyện ân oán giữa người quân tử Ngô Thì Nhậm và kẻ tiểu nhân như Đặng Trần Thường. Tôi đã tham khảo các bài viết của các bậc trí giả họ đều khen ngợi hai người đối đáp nhau chữ nghĩa thật là thâm sâu, học vấn uyên bác. tôi xin trích dẫn tóm tắt sơ lược như sau: Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm “Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai” Vế đối hiểm hóc vì có 5 chữ ai và có chữ trần là tên đệm của Đặng Trần Thường Ngô Thì Nhậm hiên ngang đáp lại: “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.(Vế đối lại cũng có 5 chữ thế, nói lên được hoàn cảnh và khí phách của người anh hùng. Và vế đối cũng có chữthời là tên đệm củaNgô Thời Nhiệm) Hai bên đối nhau chan chát, cực kỳ chuẩn không sai luật đối một ly. Quả là lời lẽ và từ ngữ của bậc quốc sĩ, nói theo kiếm hiệp Kim Dung, hào khí ngất trời. Câu đối lại của Ngô Thì Nhậm:Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế hoặc là :Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại như câu nói "thế đành theo thế"(hay thế thời theo thế hoặc là thế thì phải thế).Ngô Thì Nhậm không thèm trả lời. Thường tức giận sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông. Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào lục phủ ngũ tạng, biết mình không qua khỏi, trước khi chết ông có làm bài thơ gửi Đặng Trần Thường : “Ai tai Đặng Trần Thường, Chân như yến xử đường Vị Ương cung cố sự Diệc nhĩ thị thu trường. Nghĩa là : Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cục của ngươi rồi cũng thế đó. Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị Gia Long xử tử.Trước khi kết thúc xin được nói thêm Ngô Thì Nhậm còn có thêm biệt tài về tướng số và bói toán vì vậy ông mới biết được Đặng Trần Thường sau này bị nhục tử. Lạc Dương chỉ Tô Tần người Lạc Dương làm nghề thuyết khách ton hót dèm pha bày đặt mưu kế đểu để hại người khác, gây ra các cuộc chiến tranh đẫm máu cuối cùng bị người ta đâm chết tươi ở nước người như một con chó dại. “Trướng hoa mai trúc đền nghì Xin chàng cởi giáp nhâm nhi chén tình Mong sao mình lại thấy mình Đốt lò hương nguyện thần linh cảm sầu Dòm song chênh chếch bóng câu Gối loan thấm ướt từng câu nghẹn ngào Mạch tương thơ lại tuôn trào Cùng chàng đổi ấm duyên đào đòi phen“ Đây chỉ là ước mơ huyễn hoặc của người vợ mong ngày ca khúc khải hoàn chồng trở về và hai người ân ái với nhau chén tạc chén thù, hoặc nhâm nhi chén trà nóng, khói bốc lên ngào ngạt. “Sông xưa vẩn đục đánh phèn Trong veo suối mát hoa chen nhụy vàng Aí ân cho bõ thiếp chàng Bao năm xa cách hoài lang mộng tàn Rượu khà oanh yến chứa chan Loan bồng phượng bế nồng nàn hơn xưa Dây uyên thánh thót hay chưa Phím loan dìu dặt nhặt thưa canh trường” Cảnh vợ chồng đoàn viên này sao mà xao xuyến đầm ấm giống cảnh tái hồi Kim Trọng thế? Nàng Kiều sau 15 năm lưu lạc giang hồ tưởng trầm mình xuống sông Tiền Đường thủ tiết với chồng là đại vương Từ Hải là xong mà cũng chưa hết chuyện. Cụ Nguyễn Du cho Kiều sống lại để gặp chàng Kim Trọng theo cái ước vọng có hậu rất nhân bản của người Việt Nam và tôi cũng theo cụ Nguyễn Du mô tả cảnh hội ngộ này bằng thơ song thất lục bát trong tập Tài Mệnh Tương Đố: “Kiệu hoa rước vi vu gió thổi Đến phủ nha chiều tối chong đèn Vội vàng mở tiệc đoàn viên Nàng Vân đứng dậy nói liền một thôi Theo lân lý tái hồi duyên chị Cơn ba đào buộc chỉ chân em Cùng là máu chảy ruột mềm Cơ trời tác hợp nỗi niềm xuân thu Chim hạc trắng vân du đây đó Chốn tha phương tìm chỗ nương thân Phong trần dầu dãi bao lần Đủ mùi cay đắng xa gần nhớ tên Bao thống khổ sầu miên thảm thiết Mười lăm năm da diết bóng hình Bây giờ mình lại thấy mình Trăng thề trả lại nghĩa tình còn nguyên Sớm lo liệu tơ duyên nối lại Gương đã lành còn ngại ngần chi Mới là mai trúc đền nghì Phận em sao dám so bì thiệt hơn Kiều gạt đi đền ơn trả oán Cuộc bể dâu đại nạn đã qua Thà rằng sương gió mịt mùa Dong chơi đáy biển cá cua nhẹ nhàng Cõi trần tục mơ màng chi nữa Xét thân mình đôi lứa xứng chăng Chen chân hổ thẹn bẽ bàng Nương nhờ cửa Phật khói nhang thỏa lòng Thân bồ liễu long đong đây đó Chốn lầu hoa trăng gió chán chê Nắng mưa dầu dãi ê chề Mặt dày mày dạn ong ve bướm vờn Thấy son phấn giận hờn số phận Bén mùi thiền tinh tấn dễ ưa Đẹp chi liễu nát hoa thừa Càng khơi động lại càng cưa cắt lòng Ân ái tha đèo bòng chi nữa Nhìn thấy nhau chan chứa tình thương Nhiễu điều phủ lấy giá gương Dưới nhường trên kính xuân hương thuận hòa Chàng Kim đã thấm nhòa tay áo Nghe trong lòng gió bão mưa sa Nỗi niềm khao khát thiết tha Quản chi sấm sét mới là thủy chung Thuyền tình ái chập chùng biển cả Trót một lời vàng đá thâm giao Trong mơ hồn vẫn khát khao Nửa đêm gà gáy nghẹn ngào sắt son Mười lăm năm héo hon thểu não Ngóng tin hoài ruột cạo dao bào Nắng mưa dầu dãi hư hao Đêm ngày tưởng nhớ lẽ nào buông xuôi? Đóa phù dung nổi trôi dòng nước Đạo vợ chồng có trước có sau Hoa thơm phong nhị sắc màu Chữ trinh đáng giá vàng thau nào bằng Nay thiếp lại với chàng giao bái Đuốc hoa càng tê tái xót xa Trông trăng luống thẹn Hằng Nga Ong qua bướm lại xấu xa đã thừa Cái hồng nhan vẫn chưa đủ nát Trần cấu còn bày đặt bố kinh Biết là chàng nặng chữ tình Ngàn năm bia miệng dơ mình nghĩ sao? Thiếp khép cửa phòng đào oanh yến Quyết nửa đời dâng hiến nhà chùa Chẳng tu thì cũng bốn mùa Ăn chay niệm Phật thêu thùa tâm linh Quyên sao được mối tình xưa đẹp Hình ảnh còn vạn kiếp phôi pha Đem tình cầm sắt đổi ra Cầm cờ tri kỷ mới là thiên thu Chữ trinh cũng mịt mù giông bão Ba bảy đường trong đạo đàn bà Như nàng lấy hiếu mẹ cha Bùn nào vẩn đục nõn nà ngó sen? Đóa sen kia còn chen hương nhị Cát bụi lầm thế kỷ tàn phai Nhưng mùi hoa vẫn dằng dai Hồn trinh phảng phất trang đài nguyệt hoa…“ khi cha mẹ và cả nàng Vân nài ép và Kim Trọng cũng nài nỉ thì nàng kiều chỉ chấp nhận thành hôn với kim Trọng có tính chất tượng trưng nhưng dứt khoát không chung đụng chăn gối. Nàng đối xử và kim Trọng như hồng nhan tri kỷ như bạn bè văn chương thôi. Kiều đã xuất gia và có am tu ở vườn ngay trong phủ quan Kim Trọng. Xin trích dẫn đoạn tiếp: “…Lòng phỉ nguyện ba sinh tái tạo Duyên lứa đôi giao hảo bạn bè Cuốc kêu tu hú gọi hè Trăng lên hoa nở tiếng ve rộn ràng Khi chén rượu lại càng say đắm Đọ mưu cờ lá thắm xanh tươi Bi bô tiếng trẻ thơ cười Con nàng Vân đó vui đời thảnh thơi Dạy cháu học làm người tích sự Chẳng lãng quên thờ tự am mây Đến nơi chẳng thấy bóng thầy Sân rêu hiu quạnh cỏ đầy mái hiên Nặng chút nghĩa trai thiền tịnh thất Khói nhang bay dào dạt hương sen Phong lưu tài tử ngợi khen Một cây đại thụ hồn nhiên quế hòe Vườn xuân tạc lập lòe bia đá Để muôn đời con cháu noi theo Sá chi giậu đổ bìm leo Đảm đang cát lũy trăng treo ngọn đào Nền phú hộ dồi dào ân trạch Quan giai luôn hiển hách gia đình Trọn hay trời đất công minh Ngàn năm nức tiếng hiếu sinh cao đài Tâm với tài tuy hai là một Tài với tâm tưởng một hóa hai Phải đâu ghét bỏ nhau hoài Vì không khéo giữ trần ai hãi hùng…” Khi nghe Thu Hà ngâm hay quá tôi mới hứng khởi viết thêm một đoạn dài 44 câu nữa và cũng thấy không nhất thiết đăng ở đây, vì đoạn này không được ngâm. Kết thúc bài bình giảng cuối cùng xin cảm tạ tri ân nghệ sĩ Thu Hà đã ngâm thơ tặng tôi và tặng đời. 12.11.2019 Lu Hà