Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 60

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 11 2, 2019.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Hồng Nhan Bạc Mệnh (6)


    Video số 6 này Thu Hà ngâm thật là tuyệt vời. Đoạn Hồng Nhan Bạc Mệnh này dài 60 câu tôi nghe không thấy chán, càng nghe càng ham vì các câu thơ bìu ríu tha thiết quấn quít nhau vần điệu rất khít. Theo tôi có thể nói là chỉn chu về thanh luật lục bát. Nên tôi thích thú quá mà gõ luôn một tràng liên thanh cũng thơ lục bát tặng nghệ sĩ Thu Hà.


    Mủi Lòng Cát Sĩ

    cảm xúc khi nghe Thu Hà ngâm video số 6


    Đoạn này dài sáu mươi câu

    Giọt mưa cẩm tú ngọc châu tuôn trào

    Thu Hà nước mắt nghẹn ngào

    Ba trăm năm khóc má đào tàn phai


    Đất trời sầu thảm bi ai

    Đoạn trường cung nữ canh dài khổ đau

    Than ôi! hương phấn phai màu

    Ngày xuân nông nổi trầu cau lỡ làng


    Nửa vòng trái đất mênh mang

    Mủi lòng cát sĩ khói nhang nấm mồ

    Cỏ khâu đom đóm san hô

    Chập chờn sóng biển sông hồ biệt ly


    Oán hờn xuống cả âm ty

    Hồn ma xiêm áo nhung y thì thào

    Lầu trang ủ rũ cánh đào

    Gió đông cười cợt cảnh nào buồn hơn?


    Nửa đêm gà gáy đòi cơn

    Cung đàn bạc mệnh chập chờn bướm bay

    Tham mùi phú quý ai hay

    Hang hùm nọc rắn đọa đày não nhân


    Tiếng thơ nức nở muôn phần

    Nguyễn Du phảng phất thương thân nàng Kiều

    Đông di thảo mộc sớm chiều

    Côn trùng rên rỉ phiêu diêu nỗi mình!


    1.11.2019 Lu Hà


    “ Đêm mong ngày nhớ hoài vương

    Năm canh sáu khắc cố hương sụt sùi

    Bóng đèn u tịch ngậm ngùi

    Ngoài sân giá lạnh đất vùi dế giun“


    Cảnh ngộ nàng cung nữ có khác chi nàng Kiều nhớ cha mẹ và người yêu là chàng Kim Trọng ở quê nhà. Cung nữ theo tôi còn đau khổ ê chề hơn cả đời một cô kỹ nữ lầu xanh mà tôi mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố:


    “Kiều thơ thẩn tủi hờn non nước

    Quê hương người thao thức bơ bơ

    Hai thân tựa cửa đứng chờ

    Nắng mưa Lai Tử hững hờ nỡ sao?


    Buồn cửa biển lao xao sóng vỗ

    Đàn hải âu lố nhố xa xăm

    Cặp đôi dưới ánh trăng rằm

    Ngàn dâu xanh ngát con tằm nhả tơ


    Buồn ngọn cỏ hồn thơ ngơ ngẩn

    Man mát trôi lận đận cánh hoa

    Thương mình ứa lệ nhạt nhòa

    Xứ người cô quạnh thềm hoa não nùng


    Cơn gió thoảng chập chùng biển cả

    Nhớ tình quân ngọc đá chưa tan

    Cách xa muôn dặm quan san

    Đêm nằm mộng tưởng nồng nàn ái ân“


    Hay là:


    “Kiều ngao ngán nét ngài ủ rũ

    Buối chiều tà chuyện cũ rối bời

    Tình quân góc bể chân trời

    Cù lao chín chữ lệ rơi đôi hàng


    Nhớ lời nguyện bẽ bàng thục nữ

    Kim Lang ôi thiếp phụ chàng rồi

    Mười hai bến nước nổi trôi

    Ngậm ngùi hỏi liễu xa xôi Chương Đài


    Cành xuân bẻ trần ai chăng chớ

    Xót ngươi cùng cảnh ngộ quan san

    Giấc mơ khắc khoải canh tàn

    Đoạn trường trong sổ hồng nhan hãi hùng“


    Bình giảng tiếp Hồng Nhan Bạc Mênh. Mong mọi người theo dõi bám sát từng câu thơ và mọi tình tiết liên đới trong tâm tư người cung nữ.


    “Chuông rền chớp giật mưa phun

    Ngó qua song cửa mây đùn non xa

    Còn đâu xiêm áo thướt tha

    Nương thân vách quế xế tà tịch dương


    Bởi tay Nguyệt Lão chủ trương

    Chẳng xe thì chớ chân giường cột dây

    Chim lồng cá chậu đọa đầy

    Thâm nghiêm kín cổng tường xây lối về”


    Cảnh cung nữ làm vợ lẽ hờ cho vua chẳng khác chi cảnh giam cầm tù ngục, con chim trong lồng con cá trong chậu, một cuộc đời tăm tối không có ánh sáng tự do.


    “Ngẩn ngơ nuối tiếc đê mê

    Xuân đào năm ngoái tràn trề yến anh

    Chim khôn cúc trái trên cành

    Còn đâu cảnh cũ năm canh não nề


    Hoa vầy ong bướm chán chê

    Ký sinh vô vị dầm dề hóa công

    Hoàng hôn rèm rủ phòng không

    Đốt lò hương khóc mênh mông khói sầu”


    Xuân đào năm ngoái ví người cung nữ có nhan sắc như hoa đào. Tich chuyện xưa kể rằng: Thôi Hộ đời Đường nhân ngày tết thanh minh đi tảo mộ hóa vàng có ghé vào một trang trại xin chén nước trà của một cô thiếu nữ đứng ở cửa ngõ bên cạnh cây đào. Người con gái mời chàng chén nước trà và nhìn Thôi Hộ bằng cặp mắt hữu tình. Năm sao cũng vào dịp lễ Thanh minh, Thôi Hộ quay trở lại

    muốn gặp lại cô gái đó, nhưng không thấy mới đề một bào thơ cài trước cửa:
    “Khứ niên kim nhật thử môn trung

    Ngân diện đào hoa tương ánh h ồng

    Nhân diện bất tri hà xứ khứ

    Đào hoa y cựu tiểu đông phong“


    Ngày này năm ngoái đến thăm thấy người đẹp và hoa đào nở. Năm nay chỉ thấy gió đông và chẳng thấy người đó đâu, hoa đào diễu cợt với gió đông. Tới năm thứ ba Thôi Hiệu lại ghé qua thì thấy trong nhà cửa đóng có tiếng khóc ai oán. Hỏi ra mới biết cô gái đó vì bài thơ của Thôi Hộ năm ngoái mà ốm tương tư đã chết rồi. Hộ xin vào thăm đến bên tử thi gọi to lên rằng: “Có Thôi Hộ đến đây, tác giả bài thơ “Đề Đô Thành Nam Trang“. Cô gái tưởng đã chết rồi bất ngờ tỉnh dậy và sau đó họ kết thành vợ thành chồng.


    Trong sinh học và sinh thái học, có một loài là gọi ký sinh, sống bám vào loài kia là vật chủ hay ký chủ. Sinh vật ký sinh và ký chủ có thể là động vật hay thực vật. Trong y học, ký sinh trùng hay động vật ký sinh là sinh vật chiếm sinh chất của các sinh vật khác đang sống để tồn tại và phát triển. Trong tự nhiên rất nhiều sinh vật tự kiếm lấy thức ăn cho mình nhưng ký sinh trùng phát triển theo hướng khác, chúng sống gửi, sống bám hoàn toàn hoặc một phần vào loài khác, như giun móc hay ký sinh trùng sốt rét. Những động vật ký sinh điển hình như các loài giun sán ký sinh trong ruột, chấy rận ve ký sinh ngoài da vật chủ. Những thực vật ký sinh điển hình như các loài cây tầm gửi và tơ hồng. Người cung nữ tự ví mình như loài ký sinh sống dựa vào nguồn thực phẩm do nhà bếp của triều đình cung cấp, chả làm gì suốt ngày vào ra trang điểm ngóng vua tới thăm để cốt sinh ra một đứa con. Nhưng vua không thèm bén mảng ngó ngàng gì nên đốt lò hương mà khóc.


    “Bực mình muốn đạp gác lầu

    Vầng trăng cô quạnh bóng câu muộn màng

    Ôm cầm gảy khúc trễ tràng

    Đông ri thảo mộc dở dang khối tình“


    Cổ cầm là một loại nhạc cụ bên Tàu gồm có 7 dây. Theo truyền thống được các học giả và sĩ phu yêu thích và xem là loại nhạc cụ thanh nhã, tinh tế, như được nhấn mạnh trong thơ văn: quân tử không thể rời cầm hay sắt tiền thân đàn tranh của Việt Nam. Tương truyền, vua Nghiêu là người phát minh ra đàn cổ cầm.


    Đông ri thảo mộc hay là Đông trùng hạ thảo là một loại đông y dược phẩm quý có bản chất là dạng ký sinh của loài nấm. Nó được sử dụng từ lâu trong y học cổ truyền Trung Hoa và y học cổ truyền Tây Tạng. Tên gọi đông trùng hạ thảo là xuất phát từ quan sát thực tế khi thấy vào mùa hè nấm mọc chồi từ đầu con sâu nhô lên khỏi mặt đất. Vào mùa đông thì nhìn cặp cá thể này giống con sâu , còn đến mùa hè thì chúng trông giống một loài thực vật hơn.


    “Hiên tây ảm đạm điêu linh

    Quảng Hàn hiu quạnh một mình Hằng Nga

    Vén mây ngó khắp sơn hà

    Cuốc kêu khắc khoải gia gia nhớ nhà“


    Hằng Nga sau khi ăn vụng tiên đan liền bay lên trời. Ngọc Hoàng biết được liền thưởng cho nàng con thỏ bạch và cho ở cung Quảng Hàn tức mặt trăng. Ngô Cương là lính gác Nam Thiên môn, tình cờ gặp được Hằng Nga, vì thế ở lại cung Quảng Hàn chơi một ngày, kết quả là vì đi chơi trong giờ làm khiến Ngọc Đế tức giận mà phạt làm đày tớ ở cung Quảng Hàn. Ngô Cương vốn là người đốn củi, hằng ngày chặt cây quế, không chăm chỉ làm việc nữa mà lười biếng thích nghỉ ngơi, khi đó cây quế liền chậm dãi lành lại, ngày qua ngày, Ngô Cương vẫn không thể hoàn thành công việc, nên vĩnh viễn phải chặt cây. Việt Nam thì quen gọi là chú Cuội.

    Cuốc kêu khắc khoải cái gia gia có nguồn gốc từ bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan:


    Qua Đèo Ngang


    “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,

    Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

    Lom khom dưới núi tiều vài chú,

    Lác đác bên sông rợ mấy nhà.

    Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,

    Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia.

    Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,

    Một mảnh tình riêng, ta với ta.“


    “Oán hờn thay phận đàn bà

    Dốc bình phấn mốc tiếng gà ỉ ôi

    Da nhăn nhưng vẫn cố nhồi

    Son khô móc cặn đứng ngồi chẳng yên


    Hết thời thong thả phẩm tiên

    Tay phàm hờ hững vô duyên chán chường

    Vắng tanh hơi lạnh thê lương

    Chênh vênh kim ốc bi thương hãi hùng“


    Phẩm tiên chỉ người con gái trong trắng băng tuyết ngọc ngà. Nhưng chẳng may lại rơi vào tay phường vô lại như đoạn thơ tôi mô tả trong tâp Tài Mệnh Tương Đố:


    “Họ mã vội rước về biệt phủ

    Khóa buồng xuân trướng rủ màn che

    Ngại ngùng sương gió e dè

    Lòng đau ruột thắt bóng đè đào tiên


    Phẩm thơm nức đòi phen suồng sã

    Biết rồi đây vàng đá phôi phai

    Hoài công gìn giữ cho ai

    Nhị hồng thà bẻ u hoài thở than


    Người chung thủy quan san ngàn dặm

    Giờ ở đâu thê thảm thế này

    Trùng phùng thỏa ước hương say

    Còn đâu hy vọng đắng cay nỗi lòng


    Thân bồ liễu long đong tứ hải

    Áng mây Tần quan ải mù sương

    Chôn nhau cắt rốn cố hương

    Ngậm ngùi gió Sở tha phương xứ người


    Kiều càng nghĩ càng rơi nước mắt

    Sẵn con dao gói chặt vào khăn

    Phòng khi họ Mã dữ dằn

    Quyết liều sinh tử tấm thân cát đằng


    Trời oan nghiệt xích thằng chặt đứt

    Bởi vì ai nỡ dứt tơ hồng

    Tuyệt đường thiếp phải theo chồng

    Gìa nua vô lại đèo bồng thiên nga…“


    Kim ốc nghĩa là nhà vàng.Theo điển tích khi Hán Võ Đế còn làm thái tử, rất thích Trần A Kiều hay gọi tắt là Trần Kiều. Mẹ là Quán Đào công chúa Lưu Phiếu, hoàng nữ duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng, cô mẫu của Hán Võ Đế Lưu Triệt.

    Công chúa Lưu Phiếu chỉ A Kiều hỏi thái tử Lưu Triệt: Có muốn A Kiều làm vợ không? A Kiều có đẹp không? Để đáp lại Hán Võ Đế nói: Nếu được A Kiều sẽ xây một tòa nhà bằng vàng cho ở.


    “Buồn vì hoa rụng não nùng

    Soi gương biếm họa tận cùng khổ đau

    Vân mồng ai biết trước sau

    Hồng trần phủ bụi vàng thau lu mờ“


    Vân mồng nghĩa là tin tức,ngóng trông chờ đợi nhưng vẫn biệt vô âm tín mất tăm hơi.


    “ Lân tinh đom đóm dật dờ

    Nấm mồ vô chủ xác xơ bướm vàng

    Bon chen quyền quý cao sang

    Mỉa mai giấc mộng phũ phàng Nam Kha


    Gốc hòe đàn kiến vào ra

    Đêm vui ngắn ngủi xót xa kiếp người

    Phấn son xiêm áo tả tơi

    Phù dung bèo bọt về nơi bến nào?“


    Nàng cung nữ nghĩ đến tương lai mà mờ mịt. Không biết sau này thân xác bị chôn vùi ở đâu? Như mả Đạm Tiên vậy? Được tôi mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố:


    “Xem phong cảnh bồn chồn xao động

    Ngọn tiểu khê tiếng trống thu ba

    Bâng khuâng sáo trúc ngân nga

    Lập lòe đom đóm sập sà mả hoang


    Cầu tre nhỏ bắc ngang dòng suối

    Khí âm u lùa tới vây quanh

    Vương Quan mới kể ngọn ngành

    Đạm Tiên diễm lệ tài danh uổng đời


    Biết bao kẻ một thời mến mộ

    Chốn quần thoa rượu đổ thâu canh

    Vương tôn công tử yến anh

    Hồng nhan bạc mệnh mong manh ái tình


    Có người khách ôm hình gấm lụa

    Tìm tới nơi giàn dụa thương đau

    Phấn son hương sắc phai màu

    Bình tan trâm gãy nát nhàu cỏ cây


    Khói hương lạnh bấy chầy năm tháng

    Kiều nghe ra cay đắng xót xa

    Thương nàng kỹ nữ tài hoa

    Vân cười chị khéo nhạt nhòa lệ rơi


    Dư nước mắt khóc người thiên hạ

    Thắp nén hương từ tạ khói bay

    Chắp tay khấn nguyện nào hay

    Phũ phàng chi kiếp tỉnh say mặn nồng


    Đời mòn mỏi má hồng son phấn

    Vẫn trắng tay tủi hận đêm trường

    Không chồng tiếp khách thập phương

    Thác đày âm phủ thê lương não nùng.


    Nào những kẻ loan chung phượng chạ

    Chốn lầu xanh suồng sã bế bồng

    Thâu canh chuốc chén rượu nồng

    Còn ai chăng tá yếm hồng đào nương


    Ta thương tiếc nén hương tri ngộ

    Một đôi lời thổ lộ tâm can

    Giữa đường gặp gỡ hỏi han

    Oan hồn dưới đó gian nan thế nào?


    Câu tứ tuyệt nghẹn ngào nhỏ lệ

    Sẵn trâm cài nhỏ nhẹ nguồn cơn

    Sầu tuôn lã chã tủi hờn

    Da cây rỉ máu chập chờn heo may


    Điều bạc mệnh đắng cay ân oán

    Chẳng từ ai kiếp nạn hồng nhan

    Vận người nằm đó mà than

    Vương Quan e ngại khuyên can dỗ dành


    Âm khí lạnh rung cành sương giá

    Dấu dày in sỏi đá cuốn cờ

    Thất kinh hoảng hốt sững sờ

    Hồn ma u hiển hoang sơ ngỡ ngàng


    Kiều day dứt tạ nàng thêm nữa

    Bài cổ phong chan chứa hữu tình

    Tuy không nhìn rõ dáng hình

    Lờ mờ nhân ảnh lòng mình nôn nao…!


    Thôi đành vậy dù sao chăng nữa

    Tình chị em khách khứa làm gì

    Đời người như cánh chim di

    Ong ve bướm vãn thầm thì bên tai.”


    “ Buồn trông cánh nhạn lao xao

    Phong thư nhắn gửi sa vào vườn hoa

    Kinh đô rơi lệ nhạt nhòa

    Thương chàng Tô Vũ máu hòa sữa dê“


    Tô Vũ là ai xin đọc bài thơ sau cuả tôi sẽ lý giải tường tận:


    Mối Tình Tô Vũ


    Đi sứ mà không thẹn quốc phong

    Anh hùng danh sĩ sáng triều cương

    Thuyền Vu gian trá hòng lung lạc

    Tô Vũ nào xanh vỏ đỏ lòng


    Ngục tối chẳng sờn bậc trí nhân

    Trung quân ái quốc tấm lòng son

    Hung nô run sợ người quân tử

    Đày aỉ đàn dê đực đẻ con ?


    Sớm tối bạn bầy với cỏ cây

    Bức thư gửi nhạn gió mây bay

    Một mai đỗ xuống vườn cung cấm

    Hán Đế bàng hoàng đau xót thay


    Trời đất hoang vu tuyết phủ dày

    Nỗi buồn tê tái có ai hay

    Bỗng đâu tiền sử xa xưa gọi

    Bốn mắt nhìn nhau rụng rã rời…


    Họ đã cô đơn thành vợ chồng

    Rừng sâu rùng rợn nghiã tào khang

    Đêm đông giông bão tình ân ái

    Một bước chẳng dời bao mến thương


    Rồi một ngày kia rụng cánh tàn

    Muà hoa chẳng trọn tháng ngày xuân

    Hán- Hồ hai nước thành giao hảo

    Thánh chỉ ban ra giận dỗi hờn


    Vua bắt chàng về Tô Vũ ơi!

    Nuí rừng thăm thẳm trái tim rơi

    Đàn dê nhớ chủ kêu thê thảm

    Gió rít nguồn cơn giọt vắn dài


    Bi tình bi sử xót thương đau

    Lẽo đẽo tiễn đưa lệ ưá sầu

    Kẻ ở người đi đường khấp khểnh

    Người rừng thiếu phụ nhớ trăng thu


    Quan aỉ cỏ cây cũng héo hon

    Quân binh nuốt giọt suối ưu phiền

    Thương người danh sĩ duyên tiền sử

    Khoảng cách ngàn năm hận thế trần


    Bốn mắt đăm đăm buồn thảm thiết

    Tháng ngày hạnh phúc phút ly tao

    Chàng về sứ sở nàng heo hắt

    Thui thuỉ từng cơn gió tuyết gào…


    Một gói cỏn con của nuí rừng

    Đường xa dạm thẳm xót thương cùng

    Chớ quên đói khát ôm nhau khóc

    Đèn đỏ thành đô đêm vắng trăng...


    Nàng lại trở về hang tối xưa

    Ngoái đầu hút bóng bước chân xa

    Ổ rơm lạnh lẽo con thơ dại

    Trằn trọc hoang vu lệ ứa trào


    Người ở kinh thành muôn tiếng reo

    Hai hàng văn võ giữa vương triều

    Hán vương ngự giá nghênh thân tiếp

    Tô Vũ bâng khuâng một chén sầu


    Tôi viết bài thơ tỏ ngợi ca

    Mối tình Tô Vũ với trăng sao

    Ngàn thu vằng vặc còn thương nhớ

    Thiếu phụ rừng xanh trong cõi mơ.


    2008 Lu H à


    “Buồn nghe ngọn gió sơn khê

    Vương Tường khăn lụa não nề bắc phương

    Tỳ bà gảy khúc hoài hương

    Hồng nhan bạc mệnh đoạn trường biệt ly“


    Vương Tường là ai cũng xin đọc bài thơ sau, mọi sự sẽ sáng tỏ:


    Thương Khóc Nàng Chiêu Quân


    Chiêu Quân! Ơi hỡi Chiêu Quân!

    Nghìn thu biền biệt trần gian tủi hờn

    Dặm trường non nước Kinh môn

    Minh Phi quê quán vẫn còn sầu tang


    Yến anh nấm cỏ ngỡ ngàng

    Trăng lên gót ngọc đài trang dịu dàng

    Mạch sầu ai oán dở dang

    Tiếng Hồ khúc nhạc bẽ bàng người ơi!


    Chiêu Quân nàng đã đi rồi

    Hôm nay có kẻ đứng ngồi tơ vương

    Hồn kêu nức nở đau thương

    Giữa làn mây trắng cánh hồng hạc bay


    Phôi pha bức họa còn đây

    Càng nhìn càng ngắm mà say vẻ tình

    Tỳ bà thánh thót cô mình

    Sen vàng bảng lảng biên đình trúc xinh


    Chúc hoa mộng ước xập xình

    Nghê thường vũ điệu bóng hình của ai

    Lu Hà lạc lối thiên thai

    Nụ hôn dàn dụa canh dài lệ chan!


    26.5.2014 Lu Hà



    Nỗi Lòng Nàng Chiêu Quân


    Hắc thủy mênh mông chở nỗi sầu

    Ngọn đèn tê tái suốt canh thâu

    Sông ơi có chảy về quê mẹ

    Mang hạt châu sa kẻ cống Hồ


    Trọn kiếp hồng nhan tủimá đào

    Căm tên hoạ sĩ nỡ sai ngoa

    Mặt hoa da phấn bôi ra mực

    Trích lệ khoé ruồi số sát phu....


    Xé mảnh luạ đào cắn máu thơ

    Đôi dòng trăng trối gửi ngàn thu

    Nhạn kia đem cánh hoa tiên ấy

    Trở lại thành đô dâng Hán Vua


    Chiếc bách lênh đênh nặng oán hờn

    Quan san Hồ-Hán gió mưa tuôn

    Quặn lòng thiếu nữ trôi dòng lệ

    Một chút hồn trinh trả thế trần


    Văng vẳng đàn khuya dưới bóng trăng

    Nhặt khoan vần vũ kéo năm cung

    Chim kêu cá lội buồn ngơ ngẩn

    Thương kẻ xa hương một nỗi lòng


    Nhớ buổi tiễn đưa vua đích thân

    Dắt tay bịn rịn giữa quân thần

    Ví cho sơ ý gây ra cảnh

    Tình đã tan rồi ôi Hán Nguyên


    Một bước chân đi ván đóng thuyền

    Cạn dòng lá thắm mối tơ duyên

    Truyện xưa nhắc lại đầy ai oán

    Dương quý Phi tàn hận Lộc sơn....


    Kẻ ấy gian thông với giặc Hồ

    Vẽ tranh bán chuá hại đời hoa

    Vì ai mắc bẫy Mao diên Thọ

    Nên nguyện sông này rửa nhuốc nhơ


    Năm tháng trải qua bao nắng mưa

    Thương người con gái thác năm xưa

    Thuyền qua kẻ lại nhìn thương bến

    Văng vẳng còn nghe một giọng sầu


    Đã mấy ngàn thu đoạn thế trần

    Xót người thục nữ thắm môi son

    Trăng sao soi tỏ cùng sông nuí

    Lữ khách trên thuyền nhớ cố nhân


    2008 Lu Hà


    “Phong tình cổ hận Kiều nhi

    Ba chìm bảy nổi tương tri luống sầu

    Chị em cam chịụ cơ cầu

    Trải qua bao cuộc bể dâu não lòng“


    Bốn câu kết đoạn video này càng rõ ràng minh bạch với cái tiên đề của tập thơ Hồng Nhan Bạc Mệnh, cuộc đời nàng cung nữ của Nguyễn Gia Thiều cũng ai oán bi thương tận cùng khổ đau như cuộc đời nàng Kiều của cụ Nguyễn Du. Bình giảng thơ, bình giảng video hết thơ nọ đến thơ kia dan díu nhau liên kết với nhau theo một trình tự lo rích tâm linh. Ta đang thưởng thức thơ và nghe ngâm thơ mà. Thơ nào thì cũng là thơ cả. Chứ không chăm chăm chỉ chữ nghĩa trong Hồng Nhan Bạc Mệnh. Muốn hiểu tường tận phải dẫn giải nhiều kiến thức văn chương. Khó nhất là điển tích.


    2.11.2019 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share