Hồng Nhan Bạc Mệnh (6) Video số 6 này Thu Hà ngâm thật là tuyệt vời. Đoạn Hồng Nhan Bạc Mệnh này dài 60 câu tôi nghe không thấy chán, càng nghe càng ham vì các câu thơ bìu ríu tha thiết quấn quít nhau vần điệu rất khít. Theo tôi có thể nói là chỉn chu về thanh luật lục bát. Nên tôi thích thú quá mà gõ luôn một tràng liên thanh cũng thơ lục bát tặng nghệ sĩ Thu Hà. Mủi Lòng Cát Sĩ cảm xúc khi nghe Thu Hà ngâm video số 6 Đoạn này dài sáu mươi câu Giọt mưa cẩm tú ngọc châu tuôn trào Thu Hà nước mắt nghẹn ngào Ba trăm năm khóc má đào tàn phai Đất trời sầu thảm bi ai Đoạn trường cung nữ canh dài khổ đau Than ôi! hương phấn phai màu Ngày xuân nông nổi trầu cau lỡ làng Nửa vòng trái đất mênh mang Mủi lòng cát sĩ khói nhang nấm mồ Cỏ khâu đom đóm san hô Chập chờn sóng biển sông hồ biệt ly Oán hờn xuống cả âm ty Hồn ma xiêm áo nhung y thì thào Lầu trang ủ rũ cánh đào Gió đông cười cợt cảnh nào buồn hơn? Nửa đêm gà gáy đòi cơn Cung đàn bạc mệnh chập chờn bướm bay Tham mùi phú quý ai hay Hang hùm nọc rắn đọa đày não nhân Tiếng thơ nức nở muôn phần Nguyễn Du phảng phất thương thân nàng Kiều Đông di thảo mộc sớm chiều Côn trùng rên rỉ phiêu diêu nỗi mình! 1.11.2019 Lu Hà “ Đêm mong ngày nhớ hoài vương Năm canh sáu khắc cố hương sụt sùi Bóng đèn u tịch ngậm ngùi Ngoài sân giá lạnh đất vùi dế giun“ Cảnh ngộ nàng cung nữ có khác chi nàng Kiều nhớ cha mẹ và người yêu là chàng Kim Trọng ở quê nhà. Cung nữ theo tôi còn đau khổ ê chề hơn cả đời một cô kỹ nữ lầu xanh mà tôi mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố: “Kiều thơ thẩn tủi hờn non nước Quê hương người thao thức bơ bơ Hai thân tựa cửa đứng chờ Nắng mưa Lai Tử hững hờ nỡ sao? Buồn cửa biển lao xao sóng vỗ Đàn hải âu lố nhố xa xăm Cặp đôi dưới ánh trăng rằm Ngàn dâu xanh ngát con tằm nhả tơ Buồn ngọn cỏ hồn thơ ngơ ngẩn Man mát trôi lận đận cánh hoa Thương mình ứa lệ nhạt nhòa Xứ người cô quạnh thềm hoa não nùng Cơn gió thoảng chập chùng biển cả Nhớ tình quân ngọc đá chưa tan Cách xa muôn dặm quan san Đêm nằm mộng tưởng nồng nàn ái ân“ Hay là: “Kiều ngao ngán nét ngài ủ rũ Buối chiều tà chuyện cũ rối bời Tình quân góc bể chân trời Cù lao chín chữ lệ rơi đôi hàng Nhớ lời nguyện bẽ bàng thục nữ Kim Lang ôi thiếp phụ chàng rồi Mười hai bến nước nổi trôi Ngậm ngùi hỏi liễu xa xôi Chương Đài Cành xuân bẻ trần ai chăng chớ Xót ngươi cùng cảnh ngộ quan san Giấc mơ khắc khoải canh tàn Đoạn trường trong sổ hồng nhan hãi hùng“ Bình giảng tiếp Hồng Nhan Bạc Mênh. Mong mọi người theo dõi bám sát từng câu thơ và mọi tình tiết liên đới trong tâm tư người cung nữ. “Chuông rền chớp giật mưa phun Ngó qua song cửa mây đùn non xa Còn đâu xiêm áo thướt tha Nương thân vách quế xế tà tịch dương Bởi tay Nguyệt Lão chủ trương Chẳng xe thì chớ chân giường cột dây Chim lồng cá chậu đọa đầy Thâm nghiêm kín cổng tường xây lối về” Cảnh cung nữ làm vợ lẽ hờ cho vua chẳng khác chi cảnh giam cầm tù ngục, con chim trong lồng con cá trong chậu, một cuộc đời tăm tối không có ánh sáng tự do. “Ngẩn ngơ nuối tiếc đê mê Xuân đào năm ngoái tràn trề yến anh Chim khôn cúc trái trên cành Còn đâu cảnh cũ năm canh não nề Hoa vầy ong bướm chán chê Ký sinh vô vị dầm dề hóa công Hoàng hôn rèm rủ phòng không Đốt lò hương khóc mênh mông khói sầu” Xuân đào năm ngoái ví người cung nữ có nhan sắc như hoa đào. Tich chuyện xưa kể rằng: Thôi Hộ đời Đường nhân ngày tết thanh minh đi tảo mộ hóa vàng có ghé vào một trang trại xin chén nước trà của một cô thiếu nữ đứng ở cửa ngõ bên cạnh cây đào. Người con gái mời chàng chén nước trà và nhìn Thôi Hộ bằng cặp mắt hữu tình. Năm sao cũng vào dịp lễ Thanh minh, Thôi Hộ quay trở lại muốn gặp lại cô gái đó, nhưng không thấy mới đề một bào thơ cài trước cửa: “Khứ niên kim nhật thử môn trung Ngân diện đào hoa tương ánh h ồng Nhân diện bất tri hà xứ khứ Đào hoa y cựu tiểu đông phong“ Ngày này năm ngoái đến thăm thấy người đẹp và hoa đào nở. Năm nay chỉ thấy gió đông và chẳng thấy người đó đâu, hoa đào diễu cợt với gió đông. Tới năm thứ ba Thôi Hiệu lại ghé qua thì thấy trong nhà cửa đóng có tiếng khóc ai oán. Hỏi ra mới biết cô gái đó vì bài thơ của Thôi Hộ năm ngoái mà ốm tương tư đã chết rồi. Hộ xin vào thăm đến bên tử thi gọi to lên rằng: “Có Thôi Hộ đến đây, tác giả bài thơ “Đề Đô Thành Nam Trang“. Cô gái tưởng đã chết rồi bất ngờ tỉnh dậy và sau đó họ kết thành vợ thành chồng. Trong sinh học và sinh thái học, có một loài là gọi ký sinh, sống bám vào loài kia là vật chủ hay ký chủ. Sinh vật ký sinh và ký chủ có thể là động vật hay thực vật. Trong y học, ký sinh trùng hay động vật ký sinh là sinh vật chiếm sinh chất của các sinh vật khác đang sống để tồn tại và phát triển. Trong tự nhiên rất nhiều sinh vật tự kiếm lấy thức ăn cho mình nhưng ký sinh trùng phát triển theo hướng khác, chúng sống gửi, sống bám hoàn toàn hoặc một phần vào loài khác, như giun móc hay ký sinh trùng sốt rét. Những động vật ký sinh điển hình như các loài giun sán ký sinh trong ruột, chấy rận ve ký sinh ngoài da vật chủ. Những thực vật ký sinh điển hình như các loài cây tầm gửi và tơ hồng. Người cung nữ tự ví mình như loài ký sinh sống dựa vào nguồn thực phẩm do nhà bếp của triều đình cung cấp, chả làm gì suốt ngày vào ra trang điểm ngóng vua tới thăm để cốt sinh ra một đứa con. Nhưng vua không thèm bén mảng ngó ngàng gì nên đốt lò hương mà khóc. “Bực mình muốn đạp gác lầu Vầng trăng cô quạnh bóng câu muộn màng Ôm cầm gảy khúc trễ tràng Đông ri thảo mộc dở dang khối tình“ Cổ cầm là một loại nhạc cụ bên Tàu gồm có 7 dây. Theo truyền thống được các học giả và sĩ phu yêu thích và xem là loại nhạc cụ thanh nhã, tinh tế, như được nhấn mạnh trong thơ văn: quân tử không thể rời cầm hay sắt tiền thân đàn tranh của Việt Nam. Tương truyền, vua Nghiêu là người phát minh ra đàn cổ cầm. Đông ri thảo mộc hay là Đông trùng hạ thảo là một loại đông y dược phẩm quý có bản chất là dạng ký sinh của loài nấm. Nó được sử dụng từ lâu trong y học cổ truyền Trung Hoa và y học cổ truyền Tây Tạng. Tên gọi đông trùng hạ thảo là xuất phát từ quan sát thực tế khi thấy vào mùa hè nấm mọc chồi từ đầu con sâu nhô lên khỏi mặt đất. Vào mùa đông thì nhìn cặp cá thể này giống con sâu , còn đến mùa hè thì chúng trông giống một loài thực vật hơn. “Hiên tây ảm đạm điêu linh Quảng Hàn hiu quạnh một mình Hằng Nga Vén mây ngó khắp sơn hà Cuốc kêu khắc khoải gia gia nhớ nhà“ Hằng Nga sau khi ăn vụng tiên đan liền bay lên trời. Ngọc Hoàng biết được liền thưởng cho nàng con thỏ bạch và cho ở cung Quảng Hàn tức mặt trăng. Ngô Cương là lính gác Nam Thiên môn, tình cờ gặp được Hằng Nga, vì thế ở lại cung Quảng Hàn chơi một ngày, kết quả là vì đi chơi trong giờ làm khiến Ngọc Đế tức giận mà phạt làm đày tớ ở cung Quảng Hàn. Ngô Cương vốn là người đốn củi, hằng ngày chặt cây quế, không chăm chỉ làm việc nữa mà lười biếng thích nghỉ ngơi, khi đó cây quế liền chậm dãi lành lại, ngày qua ngày, Ngô Cương vẫn không thể hoàn thành công việc, nên vĩnh viễn phải chặt cây. Việt Nam thì quen gọi là chú Cuội. Cuốc kêu khắc khoải cái gia gia có nguồn gốc từ bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan: Qua Đèo Ngang “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông rợ mấy nhà. Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc, Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia. Dừng chân đứng lại: trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.“ “Oán hờn thay phận đàn bà Dốc bình phấn mốc tiếng gà ỉ ôi Da nhăn nhưng vẫn cố nhồi Son khô móc cặn đứng ngồi chẳng yên Hết thời thong thả phẩm tiên Tay phàm hờ hững vô duyên chán chường Vắng tanh hơi lạnh thê lương Chênh vênh kim ốc bi thương hãi hùng“ Phẩm tiên chỉ người con gái trong trắng băng tuyết ngọc ngà. Nhưng chẳng may lại rơi vào tay phường vô lại như đoạn thơ tôi mô tả trong tâp Tài Mệnh Tương Đố: “Họ mã vội rước về biệt phủ Khóa buồng xuân trướng rủ màn che Ngại ngùng sương gió e dè Lòng đau ruột thắt bóng đè đào tiên Phẩm thơm nức đòi phen suồng sã Biết rồi đây vàng đá phôi phai Hoài công gìn giữ cho ai Nhị hồng thà bẻ u hoài thở than Người chung thủy quan san ngàn dặm Giờ ở đâu thê thảm thế này Trùng phùng thỏa ước hương say Còn đâu hy vọng đắng cay nỗi lòng Thân bồ liễu long đong tứ hải Áng mây Tần quan ải mù sương Chôn nhau cắt rốn cố hương Ngậm ngùi gió Sở tha phương xứ người Kiều càng nghĩ càng rơi nước mắt Sẵn con dao gói chặt vào khăn Phòng khi họ Mã dữ dằn Quyết liều sinh tử tấm thân cát đằng Trời oan nghiệt xích thằng chặt đứt Bởi vì ai nỡ dứt tơ hồng Tuyệt đường thiếp phải theo chồng Gìa nua vô lại đèo bồng thiên nga…“ Kim ốc nghĩa là nhà vàng.Theo điển tích khi Hán Võ Đế còn làm thái tử, rất thích Trần A Kiều hay gọi tắt là Trần Kiều. Mẹ là Quán Đào công chúa Lưu Phiếu, hoàng nữ duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng, cô mẫu của Hán Võ Đế Lưu Triệt. Công chúa Lưu Phiếu chỉ A Kiều hỏi thái tử Lưu Triệt: Có muốn A Kiều làm vợ không? A Kiều có đẹp không? Để đáp lại Hán Võ Đế nói: Nếu được A Kiều sẽ xây một tòa nhà bằng vàng cho ở. “Buồn vì hoa rụng não nùng Soi gương biếm họa tận cùng khổ đau Vân mồng ai biết trước sau Hồng trần phủ bụi vàng thau lu mờ“ Vân mồng nghĩa là tin tức,ngóng trông chờ đợi nhưng vẫn biệt vô âm tín mất tăm hơi. “ Lân tinh đom đóm dật dờ Nấm mồ vô chủ xác xơ bướm vàng Bon chen quyền quý cao sang Mỉa mai giấc mộng phũ phàng Nam Kha Gốc hòe đàn kiến vào ra Đêm vui ngắn ngủi xót xa kiếp người Phấn son xiêm áo tả tơi Phù dung bèo bọt về nơi bến nào?“ Nàng cung nữ nghĩ đến tương lai mà mờ mịt. Không biết sau này thân xác bị chôn vùi ở đâu? Như mả Đạm Tiên vậy? Được tôi mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố: “Xem phong cảnh bồn chồn xao động Ngọn tiểu khê tiếng trống thu ba Bâng khuâng sáo trúc ngân nga Lập lòe đom đóm sập sà mả hoang Cầu tre nhỏ bắc ngang dòng suối Khí âm u lùa tới vây quanh Vương Quan mới kể ngọn ngành Đạm Tiên diễm lệ tài danh uổng đời Biết bao kẻ một thời mến mộ Chốn quần thoa rượu đổ thâu canh Vương tôn công tử yến anh Hồng nhan bạc mệnh mong manh ái tình Có người khách ôm hình gấm lụa Tìm tới nơi giàn dụa thương đau Phấn son hương sắc phai màu Bình tan trâm gãy nát nhàu cỏ cây Khói hương lạnh bấy chầy năm tháng Kiều nghe ra cay đắng xót xa Thương nàng kỹ nữ tài hoa Vân cười chị khéo nhạt nhòa lệ rơi Dư nước mắt khóc người thiên hạ Thắp nén hương từ tạ khói bay Chắp tay khấn nguyện nào hay Phũ phàng chi kiếp tỉnh say mặn nồng Đời mòn mỏi má hồng son phấn Vẫn trắng tay tủi hận đêm trường Không chồng tiếp khách thập phương Thác đày âm phủ thê lương não nùng. Nào những kẻ loan chung phượng chạ Chốn lầu xanh suồng sã bế bồng Thâu canh chuốc chén rượu nồng Còn ai chăng tá yếm hồng đào nương Ta thương tiếc nén hương tri ngộ Một đôi lời thổ lộ tâm can Giữa đường gặp gỡ hỏi han Oan hồn dưới đó gian nan thế nào? Câu tứ tuyệt nghẹn ngào nhỏ lệ Sẵn trâm cài nhỏ nhẹ nguồn cơn Sầu tuôn lã chã tủi hờn Da cây rỉ máu chập chờn heo may Điều bạc mệnh đắng cay ân oán Chẳng từ ai kiếp nạn hồng nhan Vận người nằm đó mà than Vương Quan e ngại khuyên can dỗ dành Âm khí lạnh rung cành sương giá Dấu dày in sỏi đá cuốn cờ Thất kinh hoảng hốt sững sờ Hồn ma u hiển hoang sơ ngỡ ngàng Kiều day dứt tạ nàng thêm nữa Bài cổ phong chan chứa hữu tình Tuy không nhìn rõ dáng hình Lờ mờ nhân ảnh lòng mình nôn nao…! Thôi đành vậy dù sao chăng nữa Tình chị em khách khứa làm gì Đời người như cánh chim di Ong ve bướm vãn thầm thì bên tai.” “ Buồn trông cánh nhạn lao xao Phong thư nhắn gửi sa vào vườn hoa Kinh đô rơi lệ nhạt nhòa Thương chàng Tô Vũ máu hòa sữa dê“ Tô Vũ là ai xin đọc bài thơ sau cuả tôi sẽ lý giải tường tận: Mối Tình Tô Vũ Đi sứ mà không thẹn quốc phong Anh hùng danh sĩ sáng triều cương Thuyền Vu gian trá hòng lung lạc Tô Vũ nào xanh vỏ đỏ lòng Ngục tối chẳng sờn bậc trí nhân Trung quân ái quốc tấm lòng son Hung nô run sợ người quân tử Đày aỉ đàn dê đực đẻ con ? Sớm tối bạn bầy với cỏ cây Bức thư gửi nhạn gió mây bay Một mai đỗ xuống vườn cung cấm Hán Đế bàng hoàng đau xót thay Trời đất hoang vu tuyết phủ dày Nỗi buồn tê tái có ai hay Bỗng đâu tiền sử xa xưa gọi Bốn mắt nhìn nhau rụng rã rời… Họ đã cô đơn thành vợ chồng Rừng sâu rùng rợn nghiã tào khang Đêm đông giông bão tình ân ái Một bước chẳng dời bao mến thương Rồi một ngày kia rụng cánh tàn Muà hoa chẳng trọn tháng ngày xuân Hán- Hồ hai nước thành giao hảo Thánh chỉ ban ra giận dỗi hờn Vua bắt chàng về Tô Vũ ơi! Nuí rừng thăm thẳm trái tim rơi Đàn dê nhớ chủ kêu thê thảm Gió rít nguồn cơn giọt vắn dài Bi tình bi sử xót thương đau Lẽo đẽo tiễn đưa lệ ưá sầu Kẻ ở người đi đường khấp khểnh Người rừng thiếu phụ nhớ trăng thu Quan aỉ cỏ cây cũng héo hon Quân binh nuốt giọt suối ưu phiền Thương người danh sĩ duyên tiền sử Khoảng cách ngàn năm hận thế trần Bốn mắt đăm đăm buồn thảm thiết Tháng ngày hạnh phúc phút ly tao Chàng về sứ sở nàng heo hắt Thui thuỉ từng cơn gió tuyết gào… Một gói cỏn con của nuí rừng Đường xa dạm thẳm xót thương cùng Chớ quên đói khát ôm nhau khóc Đèn đỏ thành đô đêm vắng trăng... Nàng lại trở về hang tối xưa Ngoái đầu hút bóng bước chân xa Ổ rơm lạnh lẽo con thơ dại Trằn trọc hoang vu lệ ứa trào Người ở kinh thành muôn tiếng reo Hai hàng văn võ giữa vương triều Hán vương ngự giá nghênh thân tiếp Tô Vũ bâng khuâng một chén sầu Tôi viết bài thơ tỏ ngợi ca Mối tình Tô Vũ với trăng sao Ngàn thu vằng vặc còn thương nhớ Thiếu phụ rừng xanh trong cõi mơ. 2008 Lu H à “Buồn nghe ngọn gió sơn khê Vương Tường khăn lụa não nề bắc phương Tỳ bà gảy khúc hoài hương Hồng nhan bạc mệnh đoạn trường biệt ly“ Vương Tường là ai cũng xin đọc bài thơ sau, mọi sự sẽ sáng tỏ: Thương Khóc Nàng Chiêu Quân Chiêu Quân! Ơi hỡi Chiêu Quân! Nghìn thu biền biệt trần gian tủi hờn Dặm trường non nước Kinh môn Minh Phi quê quán vẫn còn sầu tang Yến anh nấm cỏ ngỡ ngàng Trăng lên gót ngọc đài trang dịu dàng Mạch sầu ai oán dở dang Tiếng Hồ khúc nhạc bẽ bàng người ơi! Chiêu Quân nàng đã đi rồi Hôm nay có kẻ đứng ngồi tơ vương Hồn kêu nức nở đau thương Giữa làn mây trắng cánh hồng hạc bay Phôi pha bức họa còn đây Càng nhìn càng ngắm mà say vẻ tình Tỳ bà thánh thót cô mình Sen vàng bảng lảng biên đình trúc xinh Chúc hoa mộng ước xập xình Nghê thường vũ điệu bóng hình của ai Lu Hà lạc lối thiên thai Nụ hôn dàn dụa canh dài lệ chan! 26.5.2014 Lu Hà Nỗi Lòng Nàng Chiêu Quân Hắc thủy mênh mông chở nỗi sầu Ngọn đèn tê tái suốt canh thâu Sông ơi có chảy về quê mẹ Mang hạt châu sa kẻ cống Hồ Trọn kiếp hồng nhan tủimá đào Căm tên hoạ sĩ nỡ sai ngoa Mặt hoa da phấn bôi ra mực Trích lệ khoé ruồi số sát phu.... Xé mảnh luạ đào cắn máu thơ Đôi dòng trăng trối gửi ngàn thu Nhạn kia đem cánh hoa tiên ấy Trở lại thành đô dâng Hán Vua Chiếc bách lênh đênh nặng oán hờn Quan san Hồ-Hán gió mưa tuôn Quặn lòng thiếu nữ trôi dòng lệ Một chút hồn trinh trả thế trần Văng vẳng đàn khuya dưới bóng trăng Nhặt khoan vần vũ kéo năm cung Chim kêu cá lội buồn ngơ ngẩn Thương kẻ xa hương một nỗi lòng Nhớ buổi tiễn đưa vua đích thân Dắt tay bịn rịn giữa quân thần Ví cho sơ ý gây ra cảnh Tình đã tan rồi ôi Hán Nguyên Một bước chân đi ván đóng thuyền Cạn dòng lá thắm mối tơ duyên Truyện xưa nhắc lại đầy ai oán Dương quý Phi tàn hận Lộc sơn.... Kẻ ấy gian thông với giặc Hồ Vẽ tranh bán chuá hại đời hoa Vì ai mắc bẫy Mao diên Thọ Nên nguyện sông này rửa nhuốc nhơ Năm tháng trải qua bao nắng mưa Thương người con gái thác năm xưa Thuyền qua kẻ lại nhìn thương bến Văng vẳng còn nghe một giọng sầu Đã mấy ngàn thu đoạn thế trần Xót người thục nữ thắm môi son Trăng sao soi tỏ cùng sông nuí Lữ khách trên thuyền nhớ cố nhân 2008 Lu Hà “Phong tình cổ hận Kiều nhi Ba chìm bảy nổi tương tri luống sầu Chị em cam chịụ cơ cầu Trải qua bao cuộc bể dâu não lòng“ Bốn câu kết đoạn video này càng rõ ràng minh bạch với cái tiên đề của tập thơ Hồng Nhan Bạc Mệnh, cuộc đời nàng cung nữ của Nguyễn Gia Thiều cũng ai oán bi thương tận cùng khổ đau như cuộc đời nàng Kiều của cụ Nguyễn Du. Bình giảng thơ, bình giảng video hết thơ nọ đến thơ kia dan díu nhau liên kết với nhau theo một trình tự lo rích tâm linh. Ta đang thưởng thức thơ và nghe ngâm thơ mà. Thơ nào thì cũng là thơ cả. Chứ không chăm chăm chỉ chữ nghĩa trong Hồng Nhan Bạc Mệnh. Muốn hiểu tường tận phải dẫn giải nhiều kiến thức văn chương. Khó nhất là điển tích. 2.11.2019 Lu Hà