Hồng Nhan Bạc Mệnh (1) Cám ơn nghệ sĩ Trần Thu Hà đã ngâm thơ lục bát dài. Bài trường ca ai oán khổ não của tôi với nhan đề “Hồng Nhan Bạc Mệnh“ tả về cảnh ngộ đời một người cung nữ tài sắc vẹn toàn, lúc đầu được vua chúa yêu rất sủng ái sau bị bỏ rơi, ghẻ lạnh. Tôi đã cảm xúc phỏng theo bài thơ song thất lục bát dài của thi sĩ Nguyễn Gia Thiều có tên gọi là “Cung Óan Ngâm Khúc“. Tiên sinh vốn dĩ là con trai của quận chúa Quỳnh Liên cháu ngoại chúa Trịnh Hy Tô. Xuất thân một võ quan được phong tới chức Ôn Như Hầu, ông lại rất giỏi tinh thông thanh luật làm thơ đường luật và thơ song thất lục bát. Theo tôi thơ song thất lục bát của ta xuất hiện trước thể thơ lục bát, kể từ khi một số học giả trí thức sáng chế ra chữ Nôm. Một dạng hao hao giống chữ Hán nhưng phát âm thuần tiếng Việt. Thời cụ Nguyễn Trãi chưa có thơ lục bát. Theo tôi có lẽ công chúa Trần Huyền Trân đi làm dâu Chiêm Thành vương quốc Chăm Pa thuộc miền Quảng Trị Thừa Thiên Huế ngày nay. Dân tộc này rất giỏi làm ca dao truyền khẩu, trai gái thường thổi kèn và hát trên đầu những ngọn suối theo vần điệu mà người Việt học tâp cải biên thành thơ lục bát, rồi lan truyền khắp miền Nam ra thể thơ lục bát, sau đó lan ra cả miền Bắc. Đỉnh cao là Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du và Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu? Để tri ân sự cố gắng của nghệ sĩ Thu Hà và cũng muốn để tặng hậu thế và các bạn yêu thơ văn ngôn ngữ Việt Nam. Tôi viết bài bình giảng này, thơ lục bát của tôi dài 368 câu và song thất lục bát của thi sĩ Nguyễn Gia Thiều dài 356 câu. “Vách tường lóng lánh vua yêu Trước sân trồng quế mĩ miều Lệ Hoa Vũ y lã chã nhạt nhòa Sương rơi phận bạc một tòa thiên hương“ Theo điển thích của Tàu, ngày xưa Trần Hậu Chủ là một ông vua phong lưu có tài làm thơ viết nhạc, nhưng lại ăn chơi sa đọa. Vua rất sủng ái cung phi Trương Lệ Hoa, nên cho xây một cái cửa tròn khảm thủy tinh pha lê trên tường, trước sân có trồng một cây quế, mỗi khi nàng Trương Lệ Hoa đứng ngắm mình thì cả cây quế và người đẹp lấp ló trong gương như nàng Hằng Nga và cây quê trên cung trăng. Vũ y là loại áo làm bằng lông chim thời đó chỉ có đệ nhất mỹ nhân mới xứng đáng được mặc. Đời người con gái đẹp ví như kiếp hồng nhan bạc mệnh như giọt sương rơi như hạt mưa sa mười hai bến nước biết vào vai ai? Nhưng nàng cung nữ tôi mô tả trong thơ không có may mắn được thoát ra ngoài và nàng bị giam hãm trong cung cấm đến suốt đời. Cho nên cụ Nguyễn Gia Thiều đã mở đầu luôn: “Trải vách quê gió vàng hiu hắt Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng Oán chi những khác tiêu phòng Mà xui phận bạc nằm trong má đào“ Đến đây xin mọi người chú ý cho cứ thơ lục bát là của tôi và thơ song thất lục bát được trích dẫn thì phải hiểu ngay là của Nguyễn Gia Thiều sáng tác. “ Trướng đào bao khách vấn vương Tiêu phòng oán trách tang thương não nùng Dở dang tủi hận vô cùng Nỗi niềm ai oán hoàng cung lạnh lùng“ Mục đích của tôi không thiên về bình thơ mà chỉ chú trọng nhiều vào việc giải nghĩa phân tích những câu chữ khó và các điển tích. Những câu chữ thuần Việt đơn giản dễ hiểu tôi để mọi người tự cảm nhận lấy. Tiêu phòng ngày xưa các bà hoàng hậu, quý phi, cung tần thường dùng hạt tiêu tán nhỏ thành bột trộn lẫn với hồ bôi vào vách cho thơm và thêm ấm cúng. “Tiếc thay cho đóa phù dung Dây uyên nương nhẹ sợ chùng phím loan Nhạt mùi áo gấm nàng Ban Thu ba gợn sóng nồng nàn bóng gương“ Hoa phù dung đẹp kỳ lạ, cánh hoa mềm mại mỏng phơn phớt đỏ nhạt, thật là nhẹ nhàng êm ái, nhưng lại sáng nở chiều tàn, ví như nhan sắc của người đàn bà con gái. Rực rỡ nhất là tuổi 16 hay 18. Người Việt có câu: Trai 30 tuổi vẫn còn xoan, gái 30 tuổi đã toan về già. Ngày nay tôi biết có rất nhiều quý bà nghệ, sĩ ca sĩ 50 hay 60 tuổi nhưng nhan sắc vẫn không hề phai nhạt, đẹp một cách kiên trì dai dẳng. Gừng càng già càng cay, sắc đẹp càng mặn mà mê hồn người ta. Những trường hợp này ngày xưa rất hiếm hoi để được được như Dương Quý Phi, Chiêu Quân, Tây Thi, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân. Thời xuân thu nàng Hạ Cơ gái nước Trịnh sau làm dâu nước Trần biết thuật hấp tinh đại pháp. Nàng có tài luyện được cái bộ phận sinh dục của mình co bóp theo ý muốn, nàng có thể ăn nằm với hàng ngàn người đàn ông, sau mỗi vụ chăn chiếu đều có vài giọt máu hồng chảy ra. Nhờ có thuật hoàn tân mà nhiều người lầm tưởng là gái còn trinh, cô bé luôn khít khìn khịt, rất chặt rất bóp sau mỗi lần giao hợp. Kỹ thuật điêu luyện thặng thừa vào bậc bạch mi sư tổ với thân hình nuột nà trắng mịn làm cho đàn ông mê mẩn cả tâm thần. Sau khi chồng chết Hạ Cơ nổi tiếng với mối tình tay bốn cùng với hai quan đầu triều là Khổng Ninh, Nghi Hàng Phu và vua Trần Linh Công. Nàng còn tặng cho 3 vị dê xồm những báu vật như quần lót bằng gấm, áo lót bằng lụa màu xanh biếc. Trải qua nhiều thế kỷ bí mật hấp tinh đại pháp cũng được khám phá ra bằng cách tập thể dục rèn luyện các cơ vòng của âm hộ lên cảnh giới tĩnh tâm như tọa thiền vậy. Võ Tắc Thiên đã luyện được hấp tinh đại pháp với khả năng 70 tuổi vẫn làm tình mạnh như con trâu cái với đám trai trẻ đáng tuổi con cháu mình. Uyên ương là một cặp vịt nước có màu sắc sặc sỡ con trống con mái luôn quấn quít bên nhau chung thủy suốt đời. Dây uyên nương nhẹ là nguyện vọng của nàng cung nữ muốn cho sợi chỉ tơ hồng buộc cổ tay nàng với vua chúa sợ căng quá như dây đàn bị đứt dây như mối tình bị tan vỡ. Nàng Ban là một cung tần của vua Thành Đế nhà Hán, làm nữ quan đến chức Tiệp Dư giỏi văn thơ đàn nhạc được vua yêu quí lắm. Sau nàng bị dâm nữ Triệu Phi Yến gièm pha mà sợ bị hại đến thân mới xin được đi hầu hạ bà Thái Hậu để làm chỗ hậu thuẫn. Nàng có làm một cái quạt bằng gấm sợi tơ trắng tự dệt ra mà ví thân phận mình hẩm hiu như cái quạt với bài thơ đề tặng vua. Theo nghĩa tiếng Việt là: “Mới dệt lụa tề trắng Trong sạch như sương tuyết Đem làm quạt hợp hoan Tròn hình giống mặt nguyệt Ra vào trong tay vua Lay động sinh gió mát Thường sợ tiết thu đến Gió mát cướp nồng nhiệt Ném cất vào xó rương Nửa đường ân ái tuyệt“ “Cỏ cây cũng muốn lên giường Mây mưa nổi trận đại dương sóng trào Lừ đừ cá lặn nôn nao Ngẩn ngơ chim nhạn lạc vào nguyệt hoa“ Bốn câu này thuần túy tả cảnh truy hoan ân ái thiết tưởng chẳng có gì khó hiểu về mặt ngôn ngữ tiếng Việt. Đọc lên đến đứa trẻ con nó cũng hiểu nên tôi không muốn giải thích phân tích dài dòng. “Tây Thi vén váy xuýt xoa Điêu Thuyền liếc mắt lòa xòa tóc mây Lưu Linh Đế Thích ngất ngây Kìa chàng Lý Bạch vui vầy du dương“ Tây Thi và Điêu Thuyền là hai mỹ nhân tuyệt sắc. Tây Thi người nước Việt theo mưu kế của Văn Sủng và Phạm Lãi xui Việt Vương Câu Tiễn cống nàng cho vua nước Ngô là Phù Sai để làm gián điệp nội cung, lung lạc ý chí Phù Sai. Phù Sai mê nàng cho xây cung điện Cô Tô tốn kém ngân ngố sức dân, coi thường lời khuyên của tướng quốc Ngũ Tử Tư mà bị mất nước. Về sau nghe nói Phạm Lãi từ quan mang Tây Thi chu du ngũ hồ và biệt vô âm tín. Điêu Thuyền thì bắt cá hai tay giữa Đổng Trác và con nuôi y là Lã Bố, để hai cha con đâm chém nhau theo kế của Vương Tư Đồ. Nàng Tây Thi Việt quốc non sông bạc mỹ nhân Ngàn năm hương sắc vẫn lưu truyền Trữ La chân núi hồn thơ thẩn Một đoá trà mi cõi mộng trần Lịch sử ngàn năm có ngậm ngùi Trăng thu bàng bạc nhớ thương người Tấm lòng trong trắng mười năm lẻ Tất cả giang sơn một nụ cười Độc kế mỹ nhân sâu hiểm sao Ba quân ớn lạnh nét yêu kiều Thù nhà nợ nước vì ai chứ Câu Tiễn kẻ kia khéo mập mờ Ngô quốc quân vương lạc nước cờ Si tình vương nặng nỗi thương đau Thù cha phút hoá thành tri kỷ Hận để ngàn thu một nỗi sầu Ai giết cha nàng có biết không? Đôi bên tranh chấp khó coi tường Địch ta mờ ảo làn ranh giới Tuổi trẻ thơ ngây chiụ lỡ làng Mộng tưởng cống Ngô là cứu đời Vinh quang hiển hách để cho ai Kẻ kia lam lũ cùng cam chiụ Bá tánh chiụ ơn chẳng bận gì Câu Tiễn Phù Sai cũng thế thôi Quân vương tranh bá chuyện bao đời Kẻ nhân người ác nào ai biết Chuyện đã qua rồi máu lệ rơi Tàn bạo hơn thua mất nước rồi Hội Kê nuốt hận chẳng nên lời Năm nghìn binh giáp còn hy vọng Phục quốc oan hồn bao tử thi Ba năm nô lệ cho Phù Sai Câu Tiễn bền gan ở xứ người Nếm phân Phạm Lãi bày mưu kế Suối lệ nhạt nhoà em gái ơi... Người mẹ quê hương có thấu chăng Ngàn thu vạn kiếp vẫn chờ mong Trữ La bến nước sầu lưu luyến Hồn ở Linh Nham thuộc nhớ đường Tình giả mà sao nông nỗi này Chân thành ân ái cuả Phù Sai Phút giây chẳng nỡ dời cung Quảng Chôn dấu trong tim một bóng người… Thương mẹ lòng ai nhớ cố hương Dặn dò em gái phút chia ly Ra đi nhẹ nhõm hồn thanh thản Chân núi Linh Nham nhuộm bóng hồng Giây phút cuối cùng đã hiểu ra Thương thân phận bạc kiếp tài hoa Việt Ngô hai nước liền sông núi Con cháu muôn dân vẫn một nhà Xả hiến thân mình cho nước non Vầng trăng vằng vặc tấm lòng son Khuyên Vua vô ý gây nên tội Cung Quảng xa hoa nợ oán hờn Bắc tiến Trung Nguyên mộng bá quyền Phù Sai nghe vợ bước điêu tàn Chiến tranh xuy yếu nguồn quân lực Nạn đói mất muà dân khóc than Tây Thi nàng hỡi có hay chăng Câu Tiễn làm sao hiểu nỗi lòng Công lao bỗng hoá thành ân oán Tan nát đời hoa những tháng ngày Thích khách phái đi muốn giết nàng Tâm xà ác độc rõ Việt Vương Một công đôi việc hai nhân mạng Chiếm đoạt tình yêu kẻ phũ phàng Ván đã đóng thuyền Phạm Lãi ơi Tài trai kiêu dũng trí hơn người Tình ta đôi ngả từ đây nhé Quảng hàn biền biệt vắng Tây Thi Hồn ở trên mây ngó xuống không Ngàn năm hạ giới xót thương nàng Hôm nay có kẻ buồn day dứt Viết một bài thơ gưỉ gió trăng 1.12. 2008 Lu Hà Lưu Linh người đất Bái có tính phóng khoáng thích uống rượu kết bạn cùng các thi nhân Nguyễn Tịch, Khê Khương có làm bài thơ tửu đức tụng nói về đức tính của rượu. Còn Đế Thích tên là Lý Chế một nhà sư có tài đánh cờ vây gọi là cờ tiên rất cao. Lý Bạch là một thi sĩ thơ đường luật nổi tiếng tự xưng là tú khẩu cẩm tâm nghĩa là miệng gấm lòng thêu. “Dương Phi tấu nhạc nghê thường Địch lầu dám sánh thu đường Tiêu Lang Dập dìu oanh yến mơ màng Bệnh Tề Tuyên đã siêu thăng thiên đàng“ Dương Phi tức Dương Quý Phi tên cúng cơm là Dương Hoàn. Tôi rất ngưỡng mộ sắc đẹp của nàng và thầm so sánh nàng với nghệ sĩ Ái Vân. Dương Qúy Phi Sắc quốc nghiêng thành Dương qúy Phi Thiên hương nhân nghiã khó ai bì Cầm kỳ thi phú yên thiên hạ Thiên sử ngàn thu để lại đời Lễ giáo vương triều bạc thế sao? Thâm cung lục viện gió mưa sầu Tam lang thương gọi cùng minh đế Giấc mộng thường dân chẳng được chiều Khúc nhạc nghê thường trong giấc mơ Mai phi cánh bướm đẹp thơm hoa Hồng nhan bạc mệnh đời cung nữ Tri kỷ hồn thơ Lý Bạch xưa Hoàng hậu phi tần sát hại nhau Bao nhiêu thảm cảnh nát lòng vua Vô tư Hoàng Đế tiêu nòi giống Vương nợ oan hồn bao trẻ thơ Ai xót thương nàng Dương quý Phi Tấm lòng trong trắng đoá hoa tươi Ngây thơ vương lụy hồn vong quốc Họ mạc lân bang hại giống nòi Giây phút hiểm nguy lià cõi đời Ra đi chẳng thẹn cánh hoa trôi Mang thân chuộc lại tình non nước Để lại ngàn thu luống ngậm ngùi Oan ức cho nàng bậc mỹ nhân Phong ba lưu lại đoá hương trần Làm thơ nhớ tiếc hồn xưa ấy Lý Bạch ôm trăng một giọng đàn. 2008 Lu Hà Giọt Thương Lệ Cuối Cùng tặng Ái Vân Gần ba thập kỷ mất tăm hơi Bỗng nổi sung lên giận dữ đời Thương tiếc làm chi đừng nói nữa Ngậm mồm ai phải chiụ cho ai? Có phải xa nhau là đã hết Nỗi sầu lưu đọng buốt trong tim Chuyện xưa nhắc laị càng thêm rối Hãy để người yên nhẹ nhõm dần Chẳng phải taị anh chẳng tại em Trời già cay nghiệt thói hồng nhan Đường xa phố cũ còn đâu đấy Dấu bóng người xưa đã lụi tàn Anh biết rằng em vẫn nhớ anh Nỗi niềm thổn thức với năm canh Phải chăng duyên nợ trời cho vậy Hận để ngàn thu mộng chẳng lành Anh đi trong cõi mù xa thẳm Em trở về quê pháo đỏ đường Có phải vì anh mà giận dữ Nên đời em phải chiụ đau thương? Đám cưới đưa ma một cuộc tình Thoáng qua ảo mộng vẫn in hình Đến khi em hiểu thì em đã Vội vã làm chi để hại mình Người ấy ngày xưa thật lạ lùng Ung dung thư thả cốt phong trần Gặp nhau như dính vào căn số Lụy để tình em chiụ lỡ làng Hối hả cho ai cái ảo danh Em tôi leo đến tận trời xanh Cho đời em trở thành vô nghĩa Hận cả cho anh một cuộc tình Anh đã đi rồi em mới thương Cuộc đời nghĩ lại thật vô thường Em tôi trẻ quá thành non dại Trắng cả đời anh một cõi lòng Nay tuổi cao rồi vẫn thở than Thương cho phận bạc cái hồng nhan Người ta háo hức vì tăm tiếng Buồn cả cho anh lạc nẻo trần Đời khổ lắm rồi có biết không? Giang hồ lãng tử thú ngang tàng Ta bà bể ái còn bi lụy Vui lắm em ơi! Cõi mộng trường Xét laị cho cùng vẫn thấy vui Khen cho cơn bão chốn mù khơi Mừng ai có hưởng mùi say sóng Mới biết rằng ta ở cõi đời Một giấc ngủ trưa có xá gì Đời nhanh như mộng chỉ vui thôi Vô thường em vẫn thường hay nói Ra thế hai ta nhạo báng đời Thôi đừng rên rỉ với lời thơ Đổi giọng đi anh để đẹp hoa Mới biết ta bà vui đấy chứ Ngân nga than thở mấy canh gà Khóc nốt giọt này có thế thôi lắm lời chỉ tổ khổ nhau thôi Ngang tàng hãy sống cho ra sống Hẹn lại muà sau cõi luân hồi! 4.2.2008 Lu Hà Tiêu Lang tức chàng Tiêu có tài thổi ống tiêu như tiếng chim phụng kêu, dạy nàng Lộng Ngọc tức con gái Mục Công nước Tần thành tài. Sau có chim phụng lớn bay xuống, hai người cưỡi chim lên trời thành tiên. Vua nước Tề là Tuyên Vương khi nói chuyện thuật trị quốc với thày Mạnh Tử có câu: ”Quả nhân hữu tật, quả nhân hiếu sắc. Bệnh Tề Tuyên nổi lên cuồn cuộn như sóng thủy triều tức là cơn điên dục vọng sắc đẹp của một đấng quân vương không sức gì cản nổi, có thể nhấn chìm cả thiên hạ xuống đáy biển. “Phụng cầu Tư Mã xênh xang Trác Văn Quân, ngả đèn nhang vội vàng Sắc tài trong nước lừng vang Thần tiên cũng chịu xếp hàng thưởng hoa” Tư Mã Tương Như người ở Thành Đô có tài văn chương đàn hay đã gảy khúc phụng cầu làm cho nàng Trác Văn Quân gúa chồng say như điếu đổ, nửa đêm bỏ trốn nhà trèo thuyền qua sông tình nguyện làm vợ chàng họ Tư Mã. Hai người mở quán rượu làm ăn buôn bán phát đạt. “Hoa xuân ca khúc thái hòa Hồng lâu e thẹn thê noa chưa từng Thâm khuê háo hức tưng bừng Hàn quang ngỏ nhụy rượu mừng thơm lây” Hồng lâu tương tự nghĩa như lầu xanh. Lầu xanh nơi ở của ả đào, ca kỹ, gái mãi dâm. Hồng lâu còn thanh cao hơn một bực là nơi ở của vua chúa, các hoàng tộc, công hầu như Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần vậy. Thê noa là từ Hán Việt có ý nghĩa như thê nhi, vợ con. Nên cụ Nguyễn Gia Thiều mới viết: “Hoa xuân nọ còn phong nộn nhụy Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang Hồng lâu còn khóa then sương Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành” Mới tý tuổi chưa nếm trải mùi đời, con gái còn trinh trắng trong khuê các thâm nghiêm cha mẹ gìn giữ ít cho ra ngoài giao thiệp với xã hội, chưa từng biết yêu đương. Giống như cụ Nguyễn Du mô tả hai chị em Vương Thúy Kiều:” Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều”. Bỗng nhiên có chiếu chỉ của Vua tuyển vào cung cấm thật là tội nghiệp nếu được vua sủng ái thì còn khá chứ không thì như đóa hoa héo quắt trong bệnh tật già nua. Các cô thiếu nữ đâ số là con cái những quan chức trong triều, ăn trắng mặt trơn. Họ mạc anh chị em xa gần thì tưởng bở có người được tiến cung, sau này còn nhờ vả mấy khi được kề cận thân rồng long thể nên háo hức tổ chúc yến tiệc tiễn đưa trọng thể. Một đóa trà mi hải đường mới ngỏ nhụy hương thơm của mùa xuân chưa từng nếm trải ánh trăng tức hàn quang cô dơn lạnh lẽo, ghẻ lạnh nơi cung cấm khi bị vua chúa chán chường hắt hủi? Thật là một bi hài kịch mỉa mai trớ trêu cho cuộc đời người cung nữ kém may mắn. Trong cung vua phủ chúa đâu chỉ vài chục cung nữ mà có hàng nghìn người chen chúc trong tam cung sáu viện. Họ có biết đâu dấn thân vào cung là tự hiến mình vào miệng cọp, vào nơi hang hùm nọc rắn, kín cổng cao tường, nội bất xuất ngoại bất nhập có khác chi nhà tù? “ Khuynh thành hương sắc bấy chầy Mùi hương giọt rấm vơi đầy canh thâu Rắp ranh vương bá công hầu Bướm xuân ngấp nghé trống chầu điểm danh“ Khuynh thành là sắc đẹp con gái làm nghiêng thành đổ nước người ta nhưng chắc gì trụ lại được lâu. Ở nhà cha mẹ cô dì chú bác trầm trồ tán tụng nhưng núi này còn ngọn núi khác cao hơn. Mình đã đẹp nhưng so với thiên hạ rộng lớn còn nhiều người đẹp hơn. Mùi hương tinh dầu của các cô gái thoa vào vùng kín để quyến rũ đàn ông như hoa hồng, oải hương, hoa nhài, ngọc lan tây là những thứ nước quý giá chỉ các cô gái vị thành niên, nhưng vài ba năm hay khi đã thành gái già với vua chúa thì ngoài 30 tuổi đã coi như phế phẩm, cái mùi thơm đó sẽ không quyến rũ nữa mà thành rấm (dấm) chua lòm lòm. Khi đưa con gái vào cung thì cha mẹ rắp ranh tấp tểnh sẽ lên làm vương bá công hầu. Cha con sẽ ngấp nghé ở điện Thái Bảo khi nghe trống chầu điểm danh, hay nghe giọng nói the thé nửa nam nửa nữ của Thái Giám truyền gọi vào chầu Vua. “Thiên thai đỉnh giáp để dành Mặt phàm kia dễ lầu xanh nếm mùi Phẩm tiên chẳng nỡ dập vùi Vua yêu chúa dấu ngọt bùi chia nhau“ Thiên thai tên ngọn núi có tiên ở. Tích Lưu Thần và Nguyễn Triệu đi hái thuốc ở núi thiên thai, lạc vào cái động gặp hai nàng tiên nữ mà kết thành vợ chồng. Ở được vài tháng nhớ quê đòi về thăm. Về đến nhà thì đã quá 7 đời người chỉ còn đứa cháu nhớ mang máng các cụ cố 7 đời truyền nhau kể lại rằng: Ngày xửa ngày xưa có hai cụ tổ tên là Lưu - Nguyễn vào núi hái thuốc rồi bông nhiên mất tích. Về sau hai chàng Lưu - Nguyễn lại rủ nhau vào núi mà mất hút luôn. Phẩm tiên là cái giá ngàn vàng chỉ sự trinh tiết của người con gái. “ Máy trời động đậy trước sau Xích thằng chi để lạt màu phấn son Vắt tay nằm nghĩ héo hon Nụ cười Bao Tự còn non nước gì?“ Máy trời hay gọi là con tạo. Như chúng ta hiểu ngày nay là quy luật tự nhiên. Xích thằng là sợi dây đỏ. Tích Vy Cố đời nhà Đường ở Tống Đô, một đêm trăng sáng đi dạo gặp một ông già đang xem sách bên có cái đãy cái bị đựng đầy tơ đỏ( xích thằng) mới tò mò hỏi? Ông cụ đáp rằng: Quyển sổ này ghi chép tên tuổi trai gái dưới thế gian, sợi dây để buộc duyên phận họ lại thành vợ chồng. Bao Tự là một mĩ nhân thời xuân thu chiến quốc chỉ để có một nụ cười của nàng mà nhà Chu mất nước. “ Đời người như cánh chim ri Lạc vào cung cấm thầm thì với ai Lẻ loi lững thững gót hài Lửa lòng nguội lạnh u hoài khổ đau Mẹ cha cắt rốn chôn nhau Thương con bồ liễu về sau thế nào? Cù lao chín chữ nghẹn ngào Trâm cài lược gãy má đào phôi phai“ Đúng như cái tiên đề bài thơ của tôi là Hồng Nhan Bạc Mệnh. Đời người con gái thật là quá ngắn ngủi. Tâm trạng của nàng cung nữ cũng giống như tâm trạng của tướng quân Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều. Tuy ông xuất thân thành phần quý tộc nhưng bản tính ngay thẳng không chịu luồn cúi, nịnh hót, không phe phái trong triều đình, tính tình phóng khoáng văn chương. Ông bị bị bọn gian thần gièm pha, nên ông trở thành người cô độc trong triều, ông chỉ thích ra ngoài ngao du với các văn nhân tài tử không quản việc triều đình, ông bị mất tín nhiệm. Vả lại người đương thời ghen ghét tài năng học vấn của ông. Nên ông treo ấn từ quan lui về ở ẩn, quanh năm với tấm áo nâu sồng đạm bạc tương cà muối rau qua ngày, chẳng cao lương ngũ vị gì của giòng dõi hoàng tộc, 27.10.2019 Lu Hà