Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 53

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 10 6, 2019.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Sầu Ly Ai Oán (5)


    Sầu Ly Ai Oán của tôi viết theo thể thơ lục bát còn rất dài, nhưng nghệ sĩ Thu Hà chỉ ngâm đến băng video số 5 thôi thì dừng lại không muốn ngâm tiếp nữa. Vì các đoạn sau toàn tả cảnh đâm chém máu me đầm đìa như trong kiếm hiệp. Mới đầu tôi chỉ nghĩ bụng mình làm một cuộc kim thiền thoát xác, hồn Trương Ba da hàng thịt. Nghĩa là tôi tự hóa thân mình vào nàng công chúa hay hoàng thái hậu Ngọc Hân để gọi hồn chồng là vua Quang Trung Nguyễn Huệ về, nghĩa là tôi phải đóng làm 3 vai diễn: Lu Hà, Ngọc Hân và Quang Trung. Trong thơ tôi phải thể hiện cái khí phách của Quang Trung, cái dịu hiền nhân hậu của Ngọc Hân, tôi phải tự thăng hoa tâm hồn thể xác tôi sao cho thật ướt át êm ái trong mộng như sảy ra ở ngoài đời thật.


    Tôi phải sống hết mình với tình yêu cháy bỏng nồng nàn của nàng công chúa 16 tuổi với một chàng trai 28 tuổi côn quyền hơn sức lược thao gồm tài. Ngoài đời tôi hơi nhỏ con chẳng râu ria gì, nhưng lại phải tưởng tượng Lu Hà ta đây cũng râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng lưng mười thước cao. Biết đâu đấy kiếp sau thân mạng mình cũng thế thì sao? Do sức mạnh siêu nhiên, ánh sáng từ trường, lực huyền bí của vũ trụ mà tôi được làm một ông Nguyễn Huệ gặp nàng Ngọc Hân hay ông Từ Hải gặp nàng Vương Thúy Kiều. Tôi phải to mồm lên mà oang oang nói tôi đang sống, sống hết mình, sống mãnh liệt, thần trí của tôi sẽ sống hết cả phần người khác, của hàng trăm triệu người. Tôi đang hiện sinh đang tạo ra những phóng thể. Tôi không hèn như bao người trong thiên hạ phải bóp mồm bóp miệng không dám nói chữ yêu thương mà chỉ ăn vụng, những kẻ chuyên giao giảng đạo đức nhưng lại hiếp dâm bà già ở trong đồn bót hay bóp vú em gái nhỏ chỉ bằng quả ổi ở cầu thang máy.


    Cứ hăng say cuồng nhiệt như vậy với nàng Ngọc Hân mà tôi đâm ra thơ thẩn si tình, như thấy mấy đêm liền tôi đang ôm ấp tấm thân mềm mại mũm mĩm của nàng Ngọc Hân và em gái nàng là nàng Ngọc Bình. Có những cảm xúc mạnh như vậy thì hồn thơ mới bốc, mới thăng hoa mà chắp cánh bay cao lạc vào cõi hư vô, vô thức. Không làm được như vậy thì thơ sẽ nhạt phèo như nước lã, như nước ốc luộc mà thôi. Rồi tôi giật mình bàng hoàng tự hỏi sau 230 năm về những biến cố nhà Tây Sơn thì mình đang viết gì đây? Viêt về mối tình bi ai sầu thảm của nàng Ngọc Hân như một bản trường ca hay mình đang viết sử thi đây? Mình làm thơ tình hay thơ kể chuyện lịch sử? Xét cho cùng thì trường hợp nào cũng đều đúng cả.


    “ Quạ kêu nắng cháy chang chang

    Một rừng xương cốt vành tang não nùng

    Giang san bão tố mịt mùng

    Ngàn năm tuyết hận anh hùng mấy ai?“


    Chim quạ và chim kền kền món khoái khẩu của chúng là thịt người thối rữa. Trên những vùng đồi núi miền Trung từ Thuận Hóa trở vào là cảnh quân quan nhà Nguyễn báo thù theo kiểu Tàu. Quân tử 10 năm báo thù vẫn chưa muộn. Nguyễn Ánh cay cú lúc sinh thời bị quân Nguyễn Huệ dồn đuổi đánh cho chạy té de vãi cả đái ra quần. Nguyễn Ánh chạy sang Thái Lan, Cao Miên và Lào cầu viện hồi đó gọi là liên minh Xiêm La, Chân Lạp và Ai Lao. Nguyễn Ánh còn dùng tàu thuyền đóng được chở lúa gạo sang vùng Lưỡng Quảng để nịnh bợ Càn Long, yêu cầu Càn Long tiếp tục xuất binh đánh Nguyễn Huệ ở mặt Bắc còn mình đánh thốc từ Gia Định ra. Đúng là Gia Cát Lượng chết thì Tư Mã Ý đắc ý. Cái chết bất thình lình của vua Quang Trung như một tai họa trời giáng xuống đầu dân tộc Việt Nam ta.


    “ Hồn thiêng thác xuống tuyền đài

    Hỏi rằng Nam Quốc anh tài tìm đâu?

    Lăng trì vạc nấu sôi dầu

    Trẻ già lăn lóc đầu lâu trợn trừng“


    Viết đến đây tôi lại nhớ đến cái cái chết của Từ Hải. Từ Hải là hùm thiêng, một con hùm sa cơ quẫn trí, một cái chết hèn chỉ vì nghe lời ngọt ngào nông cạn của một người đàn bà mà tôi mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố:


    “Từ đâu biết mưu mô thế trận

    Thân chinh ra đón tận cửa viên

    Hồ bèn ném chén rượu liền

    Lễ nghi pháo nổ bốn bên phất cờ


    Râu dựng ngược ai ngờ trúng bẫy

    Quyết liều thân vùng vẫy trận tiền

    Cọp rừng nổi giận khùng điên

    Xông pha tả hữu đánh rền một thôi


    Giữa vòng vây đâm xuôi chém ngược

    Rách áo bào quyền cước tướng quân

    Hùm thiêng thất thế thành thần

    Oai phong lẫm liệt chôn chân sắt đồng


    Trơ như đá máu hồng ướt đẫm

    Mắt trợn trừng ảm đạm chiến trường

    Loạn quân tay dắt thê lương

    Nàng nhìn Từ đứng khí đương ngút trời


    Càng thểu não lệ rơi lã chã

    Khóc than rằng mất cả cơ đồ

    Tài năng dư sức hải hồ

    Bởi nghe lời thiếp nên cơ sự này


    Mặt nào nữa nơi đây tỉnh ngộ

    Thà cùng nhau hầm hố chôn thây

    Tan xương nát thịt bạn bầy

    Lao đầu vào gốc cây bên vệ đường


    Lạ thay oan khí thương cảm vợ

    Từ bỗng nhiên ngã đổ xuống ngay

    Ôm thây lòng dạ đắng cay

    Hồng nhan họa thủy xưa nay tương triền“


    Còn cái chết của vua Quang Trung là cái chết vô thường, sinh lão bệnh tử. Cái chết của người anh hùng đoản mệnh để cho tiểu nhân được thời đắc ý. Tư Mã Ý qặp may lên mặt với thiên hạ con cháu ông mới có cơ hội lập ra triều Tấn là nhờ cái chết của Gia Cát Lượng. Sự trả thù khốc liệt dã man của Nguyễn Ánh khác hẳn với sự trả thù chính đáng của nàng Kiều. Nhân cách của Nguyễn Ánh so với nàng Kiều còn kém xa lắm như tôi đã mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố. Các bạn hãy từ từ mà nhởn nha thưởng thức văn chương về những mảnh đời sự kiện của quá khứ xa xăm, rồi hiện tại và tương lai liên kết nhau. Không nên ăn sổi ở thì đọc thơ văn hấp tấp như đi ăn cướp đâu mà vội mà vàng, chê dài đau đầu nhức óc mà sợ những trích đoạn dài. Trích đoạn cũng là thơ, cũng lâm ly thống thiết, cũng là thưởng thức văn chương. Thì hãy thả hồn mà thưởng thức cho hết những trích đoạn đi mà tạo ra một chuỗi hình ảnh liên đới, những mắt xích lô gich của thiên nhiên vũ trụ của các thế kỷ:

    “Lệnh tiễn truyền giữ êm họ Thúc

    Đàn hạch gì hạ nhục chưa nên

    Mụ quản gia vãi Giác Duyên

    Cũng sai lệnh tiễn trước tiên rước mời


    Tiếng dạ ran long trời lở đất

    Càng sục sôi roi quất ngựa phi

    Mây đen sấm chớp tức thì

    Thiên lôi nổi trận uy nghi thiên đình


    Một mẻ tóm đại hình sắp sẵn

    Về đầy nơi khóa chặn trong ngoài

    Quân trung đao búa giáo dài

    Sơn lâm chúa tể quốc oai chỉnh tề


    Bầy chồn cáo chó dê lục tục

    Trước sân rồng phủ phục rập đầu

    Điểm danh chửa dứt trống chầu

    Bá quan văn võ đứng hầu hai bên


    Từ đại vương ngồi khen mệnh phụ

    Để cho nàng phán xử công minh

    Kiều vâng lời cậy uy linh

    Thiếp xin báo đáp ân tình trượng phu


    Trước báo ân sau thù sẽ trả

    Cho gọi mời vội vã Thúc Lang

    Hồn siêu phách lạc mơ màng

    Nghìn trùng non nước ơn chàng năm xưa


    Vợ chàng thói mạt cưa mướp đắng

    Lắm mưu mô chẳng đặng nói ra

    Kể sao cho hết ranh ma

    Lâm Truy, Vô Tích lệ sa máu trào


    Sâm thương nợ tơ đào trúc mã

    Chốn bụi hồng vàng đá phôi pha

    Tạ ân báo đức lòng ta

    Nghìn cân bạc trắng lụa là phát ra


    Hoạn tiểu thư Hoạn bà cùng giuộc

    Hai mẹ con đánh thuốc hại ta

    Mê man phóng hỏa đốt nhà

    Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau


    Mưu sâu trả nghĩa sâu cũng trả

    Hận ngàn thu hả dạ lòng người

    Kiến bò miệng chén chưa bơi

    Dầu sôi lửa bỏng lò hơi canh giờ


    Thúc Sinh càng bơ phờ thê thảm

    Mồ hôi chàng ướt đẫm như mưa

    Lòng riêng mừng rỡ hay chưa

    Mặt như chàm đổ lại vừa ngẩn ngơ


    Kìa sư trưởng nãy giờ Kiều mới

    Mụ quản gia mời gọi lên trên

    Dắt tay hai vị xưng tên

    Hoa nô cũng với Trạc Tuyền là tôi


    Nhớ khi xưa bèo trôi hoa rớt

    Được hai người cứu vớt cưu mang

    Ân sâu nghĩa nặng nghìn vàng

    Tặng lòng phiếu mẫu thênh thang biển trời


    Cả hai nhìn rụng rời kinh hãi

    Vui lại càng lo ngại bồi hồi

    Xin mời hai vị rán ngồi

    Xem cho tường tận biết tôi báo thù


    Lệnh tiễn xuống binh phù chư tướng

    Cấm vệ quân dưới trướng uy nghi

    Vạc dầu dao kéo tức thì

    Kẹp chân rút móng lăng trì khảo tra


    Gươm sáng quắc tuốt ra khỏi vỏ

    Hoạn Thư đâu túm cổ lôi vào

    Nhác trông nàng đã hỏi chào

    Tiểu thư cũng có ngày nào tới đây


    Đàn bà dễ mấy tay biết mặt

    Thói hồng nhan bày đặt chi nhiều

    Bợm già cay nghiệt bao nhiêu

    Càng oan trái lắm càng điêu đứng đời


    Hoạn Thư rách tả tơi tà áo

    Hồn phách bay lảo đảo bóng chiều

    Ranh ma thị cũng lắm chiêu

    Rập đầu máu chảy lựa điều kêu ca


    Tôi chút dạ đàn bà nông cạn

    Chẳng nghĩ xa vướng nạn ghen tuông

    Mến tài rồi cũng sả buông

    Sân si nóng giận dơ tuồng phấn son


    Lòng đây cũng héo hon đòi đoạn

    Cảnh tạo ra ly gián chép kinh

    Với khi dời bỏ dứt tình

    Trông theo chẳng tiếc bóng hình mù sương


    Nên nghĩ lại tình thương trắc ẩn

    Phận liễu bồ tủi hận khổ đau

    Tóc tơ vàng đá phai màu

    Chồng chung khó chịu mặt cau có buồn


    Trót gây việc thay hồn đổi xác

    Phóng hỏa thiêu tan tác chim muông

    Đọa đày hầu hạ xã xuồng

    Nửa đêm gà gáy ngồi trông sao trời


    Hãy nghĩ lại mấy lời tâm huyết

    Lượng hải hà khẩn thiết xin tha

    Khoan dung chút phận đàn bà

    Mười hai bến nước biết là về đâu?


    Cuộc trăm năm bể dâu nếm trải

    Kiều càng nghe tê tái cõi lòng

    Ngẫm mình số kiếp long đong

    Tiểu thư khôn khéo cầu mong nhân từ


    Lệnh truyền xuống Hoạn Thư tha bổng

    Đánh vài hèo tiếng trống qua loa

    Tạ lòng rơi lệ nhạt nhòa

    Thúc Sinh lẽo đẽo theo hoa về nhà


    Sinh từ tạ mừng ra nước mắt

    Lại một dây bị dắt vào trong

    Rập đầu quỳ trước sân rồng

    Đùng đùng nổi trận Từ Công sấm gầm


    Bay đáng chết băm vằm xử trảm

    Lệnh phu nhân thị giám nội đao

    Đất bằng cát bụi non cao

    Lưới trời trải rộng khép vào chẳng tha


    Trước Bạc Hạnh, Bạc Hà ưng khuyển

    Tội lăng trì róc đến thịt da

    Sở Khanh nghiền nát cho gà

    Mã Giám Sinh, mụ Tú bà nấu cao


    Vạc dầu nóng làm sao sống xót

    Trước ba quân xương cốt tan tành

    Máu tràn thịt nát hôi tanh

    Vàng con mắt sợ mật xanh óc lầy


    Quân đao phủ thẳng tay hành quyết

    Cả pháp trường thảm thiết kêu la

    Thanh thiên bạch nhật quan tòa

    Mấy người bạc ác tinh ma đáng đời


    Tội chồng chất đất trời căm phẫn

    Các quan viên đến tận nơi coi

    Đèn cao muôn trượng sáng soi

    Đền ơn trả oán xong rồi tạm nguôi


    Vãi Giác Duyên bồi hồi cáo biệt

    Cõi sa bà thảm thiết bi ai

    Nghiệp gieo xuống tận tuyền đài

    Trả vay vay trả thiện tai xoay vần


    Cõi người ta hành vân thiên tải

    Chẳng mấy khi kinh hãi bất thần

    Rồi đây bèo dạt sông Ngân

    Biết đâu hạc nội mây Tần là đâu?


    Sư chắp tay chẳng lâu thấy khắp

    Trong năm năm lại gặp nhau mà

    Thuở còn du thủy phương xa

    Thỉnh sư Tam Hợp vốn là tiên tri


    Báo cho biết ly kỳ hội ngộ

    Còn năm năm hầm hố chông gai

    Thói đời đen bạc trần ai

    Mới hay tiền định chẳng sai chút nào


    Tin điều trước ứng vào vận mệnh

    Bể trầm luân chẳng chệch ý trời

    Khôn ngoan mưu sự tại người

    Làm sao thấu hiểu cảnh đời sầu tang


    Kiều bịn rịn hai hàng lệ nhỏ

    Nắm tay sư bày tỏ ân sâu

    Tiên tri ghi nhớ trong đầu

    Giác Duyên căn dặn đôi câu chân tình


    Thoắt đâu thấy dáng hình non thẳm

    Cố nhân đi muôn dặm trùng dương

    Sá chi bể khổ vô thường

    Ung dung tự tại bốn phương là nhà“


    Nàng kiều báo ân trả oán thật là rạch ròi công minh không như Gia Long bắt nhầm còn hơn bỏ xót, nhổ cỏ nhổ sạch gốc rễ, gìa trẻ lớn bé băm vằm ra thành tương hết, nấu cao hết, không chỉ một vài chục mạng mà hàng trăm hàng nghìn người. Gia Long còn ra chiếu tố giác ngụy quân ngụy quyền Tây Sơn, nên sảy ra nhiều vụ án oan do vu khống, do hiềm khích cá nhân mà bịa chuyện tố giác người ta, bạ ai cũng chụp cho cái nón Tây Sơn để lĩnh tiền thưởng.


    Nguyễn văn Thành là trung thần luôn bên cạnh bảo vệ Gia Long thuở hàn vi lận đận từ Côn Đảo, Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng cũng bị tố cáo vì có con trai hay thích thơ phú có những câu ý tứ xem ra phản nghịch. Con của Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Văn Thuyên, đỗ Cử nhấn khoa Quý Dậu, thường dùng thơ văn để giao thiệp với khách thơ. Nghe nói ở Thanh Hóa có Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận là những người nức tiếng hay chữ. Nguyễn Văn Thuyên bèn sai môn hạ là Nguyễn Trương Hiệu đến mời. Trong bài thơ gởi hai người nói trên có câu :


    “Thử hồi nhược đắc sơn trung đế

    Tả ngã kinh luân chuyển hóa cơ“


    Hiệu tố cáo Thuyên chỉ là một anh học trò sức trói gà không chặt với tụi gian thần đang ganh ghét Nguyễn Văn Thành. Bọn văn sĩ dốt nát trong triều đình mới bới lông tìm vết chẻ tư sợi tóc vu cáo cha con Thành tư tưởng lập trường không rõ ràng kiên định trung thành với vua, có ý làm phản và Thuyên bị xử tội chết còn đại công thần Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc tự tử.


    “Lẽ nào dân nước rửng rưng

    Tiệc hoa nhà Nguyễn vui mừng chiến công

    Thẻ bài cấm chợ ngăn sông

    Sưu cao thuế nặng chất chồng dân đen“


    Dân Nam mình tôi phải công nhận xương hàn cốt nhược nên hay sợ bóng sợ gió an phận hủ thường đèn nhà ai rạng nhà đó, sợ vạ vào thân nên không dám phản đối những bất công đè nén. Nguyễn Ánh hành hình phụ nữ ở pháp trường như xẻo từng miếng vú bà Bùi Thị Xuân. Kẻ sĩ thì mũ ni che tai mặc kệ nó. Trong khi Nguyễn Huệ chủ trương truyền bá chữ Nôm thì Nguyễn Ánh làm ngược lại, phục hồi chữ Hán với những tên quan trường ngu dốt quen ăn của đút mà tạo ra hình ảnh một nho sĩ bất mãn như ông Trần Tế Xương.


    Canh Tý Hẩm Hiu


    Hai đưá tranh nhau một cái thủ

    Tuân khoe văn hoạt Nghị văn già

    Phen này đỗ rặt đầu gà

    Bác Tuyên kia cũng thứ ba rốt phường


    Năm canh tý thi hương thi hội

    Cái thủ khoa nham nhở mốc meo

    Văn chương ú ớ lộn lèo

    Quan trường hậm hoẹ chó mèo đuổi nhau


    Mộng sĩ tử sớm khuya đèn sách

    Cũng lăm le hiển hách bảng vàng

    Vinh quy bái tổ vẻ vang

    Võng anh lăn trước võng nàng trườn theo


    Trần tế Xương mấy khoa phạm huý

    Bởi trường qui túy luý họ vua

    Nước Nam văn sĩ thiếu thưà

    Bon chen tập toẹ chẳng chưà ngu si


    Thế mới biết học tài thi phận

    Miệng đàn bà con mọn mà thiêng

    Thấm đòn đau đớn ngả nghiêng

    Oằn lưng thân chó mẻ riềng đen thui...


    cảm tác từ 4 câu thơ cuả Trần tế Xương: Khoa Canh Tý ( 1900)

    28.11.2012 Lu Hà



    NỢ QUAN TRƯỜNG


    Oán nợ quan trường nó vấn vương

    Bao nhiêu kẻ ước với người mong

    Đè đầu cưỡi cổ trên thiên hạ

    Chính sách ban hành xuống chủ chương

    Đâu phải mến yêu tài xuất phú

    Hay trò đồng bóng chúng xù ông

    Thôi thôi dẹp quách đi cho rảnh

    Cái miếu trơ trơ dấu bụi hồng…


    2008 Lu Hà


    Nguyễn Ánh toàn làm ngược lại những chủ trương cải cách tiến bộ của Nguyễn Huệ mà Ánh lại tạo ra những thảm cảnh ngăn sông cấm trợ, thẻ bài xuất đinh hộ khẩu, thuế khóa cao làm cho đời sống dân đen như con giun con dế quằn quại dưới gót chân quan lại họ hàng quý tộc nhà Nguyễn.


    “ Công hầu bá tước bon chen

    Ngựa xe nghễu nghện phận hàn kể chi

    Chặt đầu giáo sĩ tu mi

    Phương Tây đoạn tuyệt xá gì quốc huy“


    Thật nực cười thương hại cho ông giáo sĩ Bá Đa Lộc tự vận động với mấy anh Tây mũi lõ quý tộc Pháp chiêu mộ thủy thủy sang đánh thuê cho Nguyễn Ánh rồi được Ánh phong tước hầu rỏm cho và bị Ánh quản thúc ở Việt Nam không cho về Pháp nữa một đời sống nô lệ quý tộc rỏm cho Ánh như con chó nằm gậm trạn. Trong khi quê nhà đã có những công xã Paris có những cuộc cách mạng cộng hòa dân chủ đề cao nhân quyền tự do bác ái. Thực ra Bá Đa Lộc không ưa gì chính sách tàn bạo của Nguyễn Ánh xua quân tiêu diệt đuổi cùng giết tận con cháu Tây Sơn và chuyện thờ cúng tổ tiên coi thường chúa Jesus như ông đã nuôi dạy Hoàng Tử Cảnh, nhưng vô tình ông đã lầm lỡ tiếp tay cho Ánh bởi những anh lính thủy Pháp khi đọc bức thư của ông .

    Vương tôn Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi và thoát ra được đảo Thổ Chu.


    Nhận định đây là một cơ hội tốt để thúc đẩy quá trình truyền giáo. Bá Đa Lộc đã tìm cách tiếp cận Nguyễn Ánh, vận động Nguyễn Ánh tìm kiếm sự giúp đỡ từ nước Pháp. Một nước cờ chính trị mạo hiểm của Bá Đa Lộc, và ông dần dần lạc đường vào chính trị hơn là truyền giáo. Nguyễn Ánh trở về Long Xuyên, chiêu mộ binh tướng, lần lượt chiếm lại Sa Đéc, Long Hồ, Gia Định... đẩy quân Tây Sơn đến Bình Thuận. Bá Đa Lộc làm cố vấn về quan hệ ngoại giao với Xiêm La và chiếm Chân Lạp, biến quốc gia này thành chư hầu để tạo thành liên minh chống nhà Tây Sơn.

    Bá Đa Lộc đã nuôi ong tay áo. Sau này chính Nguyễn Ánh và các triều Nguyễn đã chặt đầu giáo sĩ phương Tây và người mộ đạo như cắt cổ gà.


    “Lao nô khổ dịch biên thùy

    Quan trường bán chữ ù lỳ sĩ phu

    Trong Nam ngoài Bắc thâm thù

    Ki- Tô máu chảy mịt mù giang san“


    Tư tưởng trị quốc của vua Gia Long đề cao nho gia và pháp gia. Nho gia lấy Khổng Tử làm nền tảng, pháp gia lấy Hàn Phi Tử, Thương Ưởng làm gốc rễ. Như vậy Gia Long có khác chi rập khuân đúng như Tần Thủy Hoàng, vị vua tàn bạo ngu dân độc tài nhất trong lịch sử. Các sử gia và bồi bút gia có thể tô vẽ cho Gia Long nào là vương đạo thương dân như con đỏ, lấy dân làm gốc, dân là nước vua là thuyền. Nước dâng thuyền lên và chính nước lại lật thuyền xuống chỉ là mồm mép ba hoa trên sách vở thôi chứ hệ thống quan nha tòa án của Gia Long từ quan huyện đã được gọi là quan phụ mẫu, chỉ là thứ quan xôi thịt bóp nặn của dân mà thôi.


    Gia Long coi nước Tàu là trung tâm văn minh, là cái rốn của thế giới. Nếu China gọi An Nam là man ri thì Gia Long gọi các dân tộc xung quanh là phiên, man. Gia Long coi Tàu là thiên tử, với triều Thanh là thần phục xin triều cống là một kiểu đóng thuế cho Tàu, như kiểu anh chị bảo kê các sòng bạc ổ đĩ điếm và dân buôn thúng bán mẹt ngoài chợ. Các nước đông nam Á mạnh như Thái Lan, Indonesia, Mã Lai, Miến Điện là hợp tác còn với Lào và Cămpuchia là bảo trợ. Với các nước phương Tây thì từ chối ngoại giao và luôn đề phòng cảnh giác. Cái ý đồ của cha đạo Bá Đa Lộc giúp Gia Long nuôi hoàng tử Cảnh để muốn Việt Nam là một quốc gia công giáo thành công dã tràng thành một việc làm thừa thãi và nguy hiểm cho chính mình và đạo công giáo.


    “ Kể sao cho hết bạo tàn

    Sinh linh thảm khốc bần hàn khổ đau

    Quả cà con cá lá rau

    Lần hồi sớm tối theo nhau lên rừng


    Măng tre củ chuối cầm chừng

    Mẹ cha bóp bụng thắt lưng ruột cào

    Tây Sơn tuấn kiệt thuở nào

    Chồng ta dẫn dắt tự hào giang sơn


    Quân Thanh một trận sạch trơn

    Đống Đa còn đó chập chờn bóng ma

    Càn Long phải sợ chồng ta

    Trời già ác nghiệt mà ra thế này“


    3 khổ thơ trên tôi đã viết theo tâm trạng nàng Ngọc Hân kể tội Gia Long áp bức dân đen và nhắc lại chiến công đánh quân Thanh của vua Quang Trung. Thiết tưởng chữ nghĩa rõ ràng chẳng có chi mà khó hiểu. Tôi chỉ muốn nói thêm, Đống Đa là một cái gò lớn, hay một nấm mồ khổng lồ nhất thế giới chôn xác quân Thanh dưới gốc cây Đa, trên gò có đền Sầm Nghi Đống mà người Hoa ở Hà Nội xây lên. Gia Long không cấm đoán, sau này bà Hồ Xuân Hương có thỏ rằng:


    „“ Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo

    Kìa đên thái thú đứng cheo leo

    Ví đây đổi phận lam trai được

    Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!“


    Còn tôi thì viết rằng:


    Gò Đống Đa


    Chiều hây hẩy Xuân Hương dạo mát

    Thấy Sầm Nghi Đống ngất nghểu treo

    Vui chân nàng cũng cố trèo

    Bảng vàng toen hoẻn lộn lèo gió ngang


    Thân này ví đổi hàng quân tử

    Sự nghiệp anh hùng đã bấy lâu

    Sá chi đạo tặc ba Tàu

    Đánh cho tan tác trắng đầu răng đen


    Trí Nguyễn Huệ sung thiên vũ bão

    Bia đá còn dòng họ còn ghi

    Văn chương mưu lược xuất kỳ

    Thướt tha yểu điệu thầm thì Ngọc Hân


    Ai Tư Vãn nồng nàn da diết

    Trái tim hồng thắm thiết xiết bao

    Thuyền quyên nhất mực má đào

    Quân reo vó ngưạ sĩ hào đắm say


    Hồ nữ sĩ ngất ngây đi đạo

    Gò Đống Đa một thuở xa xôi

    Xác quân xâm lược tả tơi

    Cành đa xào xạc một thời vẻ vang


    Thơ chị viết bẽ bàng Thái Thú

    Khói nhang tàn ô nhục cẩu Thanh

    Xương phơi đồng nội kinh thành

    Mồ sâu gò mối sử xanh máu tràn.


    cảm tác khi đọc thơ Hồ Xuân Hương: Đền Thái Thú

    10.11.2012 Lu Hà


    ” Quảng Tây cầm chắc trong tay

    Phút đâu tuột mất đắng cay lạc loài

    Nam Bang nuối tiếc mãi hoài

    Êch nằm đáy giếng thở dài sấm vang”


    Vua Quang Trung đủ mạnh để ép Càn Long gả con gái cho mình và đòi hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm của hồi môn. Lễ bộ sứ giả đang tiến hành thủ tục cầu hôn, thì vua Quang Trung bất ngờ bị bạo bệnh mà qua đời.

    Còn Nam Bang nuối tiếc là tôi muốn nhắc lại đển tích Trạng Quỳnh. Nhà Thanh cho sứ thần sang nước ta. Triều đình kêu Quỳnh đi đón tiếp. Ouynhf phụng mệnh xin thêm bà Đoàn Thị Điểm giả là cô bán hàng nước, còn mình thì làm anh lái đò. Khi đoàn khách Tàu đến có ghé vào quán nước, một tên trong bọn thả lời bỡn cợt:

    -“Nam bang nhất thốn thổ bất tri nhân canh”

    Giải nghĩa là một tấc đất nước Nam không biết bao nhiêu người cày. Ý cho rằng bà Điểm lẳng lơ đĩ thõa ăn năm không biết bao nhiêu là đàn ông.


    Bà Điểm mới khinh bỉ nhổ toẹt một bãi nước miếng trầu và đọc luôn là:

    - ” Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất”

    Nghĩa là: Bọn quan quyền phương bắc đều từ chỗ đó mà ra.


    Nghe xong câu đó cả đoàn sứ giả Tàu trợn tròn mắt. Chúng không ngờ An Nam chỉ một cô hàng nước mà hay chữ thông tuệ như vây? Khách xuống đò của Quỳnh, một tên trong bọn ăn uống phải thuốc nhuận tràng của cô Điểm, nên đánh cái rắm và té de ra quần thối rinh lên. Hắn không biết ngượng còn to mồm đọc:

    -“Lôi động Nam bang” nghĩa là sấm động nước Nam


    Quỳnh đang cầm lái mới dừng lại đái cầu vồng xuống sông và đọc:

    -” Vũ qua Bắc hải” nghĩa là mưa qua biển Bắc.


    Sau này đám sĩ phu Bắc Hà thời nhà Nguyễn vẫn còn nuối tiếc, tí nữa lãnh thổ nước ta nhờ vua Quang Trung được mở rộng lên phía bắc. Nhưng trình độ học vấn có đáng là bao, nham nhở mãi với mấy câu thơ đường luật hơi một tý là phạm húy kiêng kỵ tên tuổi vua, thái thượng hoàng, hoàng hậu, thái hậu, cô dì chú bác cụ kỵ mấy đời tông giống nhà vua. Họ cho rằng: Thơ đường chỉ có 4 nguyên tắc niêm luật mà thôi. Trong khi của Tàu bảng niêm thơ đường có 16 luật niêm. Chỉ rêng có cụ Nguyễn Du tinh thông bác cổ, học vấn uyên thâm, khi cụ sang đi sứ có làm bài Độc Tiểu Thanh Ký. Triều đình nhà Thanh các đại phu khen nức nở, nhưng khi về Viêt Nam tụi bút nô bá láp ở Huế lại chê thơ cụ sai niêm luật thơ đường:

    ” Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư

    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

    Chi phấn hữu thần liên chỉ hậu

    Văn chương vô mệnh lụy phần dư

    Cổ kim hận sự thiên nan vấn

    Phong vận kỳ oan ngã tự cư

    Bất tri tam bách dư niên hậu

    Thiên hạ hà nhân khấp tố như”


    Nên tôi mới có câu: “Ếch nằm đáy giếng thở dài sấm vang”


    Cái oai phong lẫm liệt và tài năng kinh bang tế thế của Nguyễn Huệ được tôi miêu tả bằng thơ:


    ” Phất phơ kìa ngọn cờ vàng

    Còn ai mang vác vẻ vang bao đời

    Ươn hèn quan thói ăn chơi

    Cam tâm nô lệ lòng người phân ly”


    Cờ vàng chính là ngọn cờ biểu tượng cho tổ quốc giống nòi người Việt Nam sẽ không còn các danh tướng như Nguyễn Huệ nữa mang vác. Triều nhà Nguyễn chỉ là đám quan lại ươn hèn bạc nhược ra sức bóc lột dân nghèo để khuân của cải tiền bạc sang đóng thuế cho Tàu gọi là triều cống. Khi Nguyễn Huệ lên ngôi vua ông không chịu hàng năm nộp cống người vàng như theo lệ như các vua Việt Nam đời trước.


    Việc Nguyễn Huệ cầu phong, theo ý của vua Càn Long, Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm đã viết cho Phúc Khang An bức thư, trong đó có đoạn:


    “Quốc trưởng nước tôi vùng lên từ thủa áo vải, nhân thời biết việc, đối với vua Lê vốn không có danh phận vua tôi. Mất hay còn là do số trời; theo hay bỏ là do lòng người. Quốc trưởng tôi có ý cướp ngôi của nhà Lê đâu mà lại coi như kẻ thoán đoạt. Trước đây Tôn bộ đường đem quân đến, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải đem quân ra ứng chiến, không hề có ý xâm phạm biên cảnh để mang tội. Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại mà lại bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao? Như thế thì tấm lòng kính thuận sợ trời thờ nước lớn cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao?...

    Mong đại nhân noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống...

    Trong bức thư viết cho Phúc Khang An này, nhà Tây Sơn đã nói rõ rằng các vua Việt Nam thời trước sở dĩ phải cống người vàng là để chuộc một tội lỗi nào đó đối với Thiên triều. Nguyễn Huệ tự coi không có tội gì với nhà Lê và cũng không có tội gì với nhà Thanh. Như vậy đời nào Tây Sơn chịu đúc người vàng để tiến cống?“


    Chính vua Càn Long sau này cũng nhận thấy lệ cống người vàng là vô lý và đã ra lệnh bãi bỏ lệ cống người vàng. Tháng bảy năm Canh Tuất, khi tiếp An Nam quốc vương giả ở hành cung Nhiệt Hà, vua Càn Long tặng một bài thơ trong đó có câu "Thắng triều vãn sự bỉ kim nhân" Việc triều trước bắt cống người vàng là đáng khinh


    “Quang Trung thế trận xuất kỳ

    Một thời oanh liệt quân uy khải hoàn

    Thần cơ diệu toán chu toàn

    Công đồn diệt viện Thoát Hoan trống đồng“


    Quang Trung là một nhà quân sự đại tài, so với các tướng giỏi của Tàu như Quản Trọng, Nhạc Nghị, Tôn Võ, Tôn Tẫn, Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn cũng chẳng kém gì. Với lối đánh thần tốc, lấy ít địch nhiều, nghiên cứu địa hình một cách khoa học, dùng quân mai phục những chỗ giặc không ngờ. Phá đồn giặc diệt quân tiếp viện đốt cháy lương thảo, dương đông kích tây vây Ngụy cứu Triệu, minh tu Sạn Đạo ám độ Trần Thương giả vờ điều quân tu bổ chỗ này rồi bất thình lình đánh úp chỗ khác. Các lối đánh dùng nước thủy triều lên xuống diệt tàu địch, như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo ngày trước đến mức Thoát Hoan tướng Mông Cổ phải chui ống đồng để quân sĩ khiêng về nước. Chuyện thái tử Thoát Hoan là có thật vào đời nhà Trần, Quang Trung đều lĩnh hội đầy đủ.


    “ Chồng ta học tập cha ông

    Rach Gầm Xoài Mút hỏa công tung hoành

    Thăng Long tốc chiến sử xanh

    Hỏa lôi động đất oai danh thiên thần


    Mưu sâu khét tiếng xa gần

    Đại đao thế võ bội phần hiểm nguy

    Máu đào nhuộm đỏ nhung y

    Bừng bừng khí thế quốc kỳ tung bay“


    Tôi đành phải dừng ngay việc viết bình giảng, tuy rằng bản trường bi ai ca Sầu Ly Ai Oán vẫn còn dài đủ cho Thu Hà ngâm 2 đến 3 video nữa. Còn tôi không đựơc ai ngâm thơ thì tôi không viết bình giảng để giảng giải ý nghĩa từng câu thơ, giải thích từng từ ngữ khó hiểu, từng điển tích vận dụng. Thu Hà bảo rằng những đoạn sau viết như kiếm hiệp toàn chuyện đâm chém máu me trả thù và có những kẻ tiểu nhân còn đồn đại Thu Hà có tình ý với tôi như người yêu chuẩn bị làm vợ lẽ cho tôi là để chặn họng Thu Hà và gián tiếp kìm hãm sự sáng tạo văn chương của tôi. Khổ lắm Thu Ha ngâm thơ đâu chỉ riêng cho mình tôi. Cô ta còn ngâm cho hàng chục hàng trăm người khác. Còn tôi đâu chỉ có Thu Hà được tôi làm thơ tán tỉnh hồn bướm hoa tiên mà còn hàng trăm cô kiều nữ khác mà tôi quen biết trên mạng facebook. Người phụ nữ tôi tặng thơ nhiều nhất là Mai Hoài Thu 453 bài thơ, Hiền Châu 353 bài, Trần Hiền Châu 194, Thi Nguyên 193, Giang Hoa 175, Thimy Ngoc Huynh 150, Vũ Hòai Trang 78, Lệ Hải 67, Pich Hạnh 60, Jacke Lương 46, vân vân và vân vân đông không kể xiết…. Còn Trần Thu Hà ngâm tặng tôi rất nhiều thơ mà tôi chỉ viết tặng Thu Hà có 41 bài thơ thôi. Nếu tôi là Hoàng Đế vương quốc thơ thì tôi sẽ căn cứ vào số thơ tôi viết tặng cho các nạng. Tôi sẽ phong Mai Hoài Thu làM chánh cung hoàng hậu, Trông coi hậu cung gồm tam cung sáu viện thơ. Hiền Châu sẽ là bắc cung hoàng hậu, Trần Hiền Châu sẽ là nam cung hoàng hậu, Thi Nguyên là đông cung hoàng hậu, Giang Hoa là tây cung hoàng hậu còn hàng chục nàng kiều nữ khác sẽ phong là phi tần và hàng trăm cung nữ khác…. Trần Thu là một quý phi được tôi sủng ái vì đã ngâm thơ tôi. Nếu được như vậy thì tốt quá. Tôi có thể nói rằng: Giang sơn thơ này là của trẫm liệu có quá đáng hay không?


    Vì miệng lưỡi thiên hạ đểu gỉa đồn thổi thối quá, nên cô ấy bớt ngâm thơ tôi đi là thiệt thòi cho cảm xúc văn chương thơ phú của tôi. Thu Hà viện cớ thơ tả cảnh rùng rợn không ngâm và tôi cũng không viết bình giảng nữa là thiệt thòi cho kho tàng văn học Việt Nam và thiệt thòi cho các bạn có tấm lòng với văn chương chữ nghiã nước nhà. Bọn tiểu nhân vô học ngu dốt háo danh thì đắc ý cười thầm. Thu Hà không chịu ngâm thơ tôi tức là đã trúng mưu chúng nó. Thật là đáng tiếc cho kho tàng văn học Việt Nam.


    6.10.2019 Lu Hà
     
    Chỉnh sửa cuối: Thg 10 7, 2019

Chia sẻ trang này

Share