Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 41

Thảo luận trong 'Thảo luận chung' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 4 6, 2017.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Kể từ khi Chúa sinh ra loài người, trái tinh cầu của chúng ta phân ra phương Tây và phương Đông. Kỳ lạ thay phương Tây lại là quê hương của các văn nhân hiền triết, xứ sở này rất ưa chuộng hâm mộ nhân tài. Rất hiếm hoi ai đó vì văn hay chữ tốt uyên bác thông thái về học thuật mà bị nguy hiểm đe dọa đến tính mạng. Còn phương Đông bản tính con người bần tiện, tiểu nhân nhung nhúc như giòi bọ. Sĩ tử làm thơ viết văn phải tránh dùng chữ trùng với tên nhà Vua, với họ mạc cụ kỵ mấy đời của nhà Vua và Hoàng Hậu.


    Ngay từ thời Tần Thủy Hoàng đã có nạn đốt sách chôn học trò. Ở bên Tàu và Việt Nam đến bây giờ vẫn còn có nạn kiểm duyệt văn chương và các ngành nghệ thuật. Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác đều bị xử bắn vì tài văn thơ. Cao Bá Quát bị tru di tam tộc, tất cả thơ văn của ông đều bị vua nhà Nguyễn ra lệnh thiêu hủy. Vua Tự Đức còn ra lệnh đem thủ cấp của ông Cao Bá Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ rồi giã nhỏ quăng xuống sông. Cái tính hằn thù thâm căn cố đế làm nhục thi thể người đã chết rồi chỉ có ở phương Đông. Còn ở phương Tây chết rồi thì thôi và khi có chuyện xích mích tranh chấp nhau thì đấu kiếm có trọng tài chứng giám rất là hào hiệp. Vua Gia Long sau khi đánh bại Quang Toản còn ra lệnh đào mả ba anh em Nguyễn Huệ sai quân lính tiểu tiện vào hộp sọ. Thật là hèn mọn khinh tởm vô cùng.


    Kể cả cụ Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều, tên gốc là Đoạn trường tân thanh là truyện thơ kinh điển được viết bằng chữ Nôm dựa theo tiểu thuyết " Kim Vân Kiều truyện"của Thanh Tâm Tài Nhân. Cốt truyện bên Tàu về đời nhà Minh xa lắc xa lơ, thế mà Nguyễn Du xuýt nữa bị mất mạng về mấy câu tả người anh hùng Từ Hải. Nếu như cốt truyện ở Việt Nam thì mất mạng là cái chắc. Truyện sảy ra ở Việt Nam thì làm gì thơ chả có những chữ phạm húy? Cả tập thơ dài dằng dặc làm gì chả có câu chữ nào đó trùng với tên bà cố nội cố ngoại hay họ hàng thân tộc hang hốc nhà Vua?


    Tuy thế chí khí nam nhi của người Á Đông còn để lại những bài thơ hay như:

    Lương Châu từ là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng của Vương Hàn, được sáng tác từ tên gọi của một điệu hát cổ của người Tàu nói về chủ đề trận mạc, biên ải.


    “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi

    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi

    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu

    Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi“


    Rượu Bồ đào rượu từ quả nho chứa trong chén bằng ngọc dạ quang. Đang muốn uống thì tiếng đàn tỳ bà đã giục phải lên lưng ngựa để phi, hoặc nếu đã say nằm giữa bãi cát, mong người đừng cười. Bởi vì, từ xưa đến nay, người đi chinh chiến có mấy ai trở về đâu?

    Hồ Trường là khúc hát của người quân tử bên Tàu trong khi uống rượu được Nguyễn Bá Trác dich sang tiếng Việt. Tôi đã cảm hứng ra thơ lục bát, song thất lục bát, thơ mới 7 chữ và bây giờ là thể 8 chữ và 5 chữ. Tôi xin tuần tự bình giảng cả hai bài.

    Khúc Sầu Ca Tê Tái

    Cảm hứng từ khúc ca của Nguyễn Bá Trác: Hồ Trường


    Hồ trường dốc, hồ trường say túy lúy

    Đấng trượng phu từng vặn cột bốc gan

    Trời nam phương ngàn dặm dấu quan san

    Ta uống cạn chén sầu ly đầu bạc

    Với tiêu đề khúc sầu tê tái nghĩa là khúc hát buồn sầu tê tái não lòng.

    Hồ trường đúng ra gọi là hồ thương nhưng ông Nguyễn Bá Trác đọc chệch ra cho thuần Việt. Như các bài bình giảng khác tôi đã giải thích hồ trường là cái bình rượu ngày xưa làm từ qủa bầu khô. Đấng trượng phu vặn cột bốc gan là hai người Chu Vấn và Tỷ Can bên Tàu thời xuân thu chiến quốc.

    Trời nam phương chỉ Việt Nam ta, khi ông Nguyễn Bá Trạc còn lưu lạc bên Tàu.


    “Nuôi chí lớn ai dè thân cò vạc

    Quê hương người xơ xác bóng tà dương

    Lại nghiêng bầu ngao ngán vẻ chán chường

    Vỗ gươm hát biết ai là tri kỷ“

    Kẻ sỹ tha phương nuôi chí lớn phục quốc tỏ mặt nam nhi tráng khí chưa thành thì đầu bạc cam chịu thân cò vạc nương náu nơi xứ người. Buồn ngao ngán vỗ gươm uống rượu hát biết ai đồng chí hướng với mình, cảm thấy lẻ loi cô độc.


    “Lửa cừu hận bụi mù roi thiết kỵ

    Áng mây bay cánh đồng cỏ mênh mông

    Hơi rượu phun lã chã tưới biển đông

    Ngọn gió bắc sấm gầm quân mạc tiếu“

    Tả cảnh chiến trận, sục sôi thù hận quân rợ mọi xâm lăng. Thiết kỵ là quận kỵ mã giỏi phi ngựa bắn cung


    “Mưa xối xả gò lưng phi nước kiệu

    Cuộc đỏ đen sát phạt bến bờ tây

    Rót về đâu thổn thức chén lệ đầy

    Nghe tiếng nhạc khúc tiêu sầu tê tái“

    Phi nước kiệu là ngựa chạy cực nhanh bay như gió. Khổ này tả cảnh chinh chết chóc thắng thua thành bại. Tự mình an ủi mình cả khi lâm trận thế cùng lực kiệt nhưng không nản chí. Cả khi nghe tiếng trống thu quân hay khúc nhạc cắm cờ trắng quy hàng.

    Tôi có bài thơ khuyên nhủ động viên người khi thất bại:

    Hãy Vững Gót Từ Đống Tro Tàn

    viết tặng nữ thi sĩ Thi Nguyên



    Hãy vững gót giữa tro tàn đổ nát

    Giữ niềm tin để được sống làm người

    Bao xót xa xin đừng rơi nước mắt

    Trong đắng cay hãy giữ trọn nụ cười



    Cuộc thế tục có gì đâu mà mất

    Bàn cờ đen khuất phục được sao đây

    Trận hỏa hoạn không thể nào thiêu nổi

    Trái tim hồng sức lực vẫn tràn đầy



    Rừng xanh lá lo gì không củi đốt

    Mùa xuân về cây nẩy lộc đâm chồi

    Con tuấn mã dẻo dai phi nước kiệu

    Cỏ xanh rờn bát ngát đóa xinh tươi



    Anh đâu biết nông nỗi nào như vậy

    Để kịp thời an ủi động viên em

    Người vẫn còn vườn nhà đơm hoa trái

    Hồn thơ say chan chứa rụng vương thềm



    Anh vẫn thế chai lỳ cùng năm tháng

    Vượt trùng dương biển thảm cõi nhân gian

    Nhưng vẫn sống qua phong ba bão tố

    Trái tinh cầu tìm lại áng thơ văn


    Sáng làm thơ tình đời bao xao xuyến

    Mà chiều nao cảnh ngộ thật thê lương

    Mùa đông về trái tim thành tê tái

    Biết cùng ai chia sẻ nỗi đau thương



    2.12.2013 Lu Hà


    “Khi xa nước tóc còn xanh chi ngại

    Sách thánh hiền học được bấy nhiêu thôi

    Kiếp trầm luân thui thủi bọt bèo trôi

    Cuộc dâu bể xót xa buồn thế sự“

    Khổ này tả cảnh đời người trầm luân gian khổ chìm nổi. Câu chữ không có gì là khó hiểu. Miễn giải thích dài dòng


    “Trán tư lự chén hồ thương lạc hỷ

    Gọi hồ trường tiếng Việt khóc hu hu

    Bạn đời ơi hiu hắt thổi hoang vu

    Xương cốt trắng rừng thông trăng cổ độ“

    Cổ văn xưa cũng có câu:
    “Nhất tướng công thành vạn cốt khô


    Mỗi một ông tướng khi thành công đều phải trả giá bằng cả vạn bộ xương binh lính chết khô, hay vinh quang của bậc vua chúa cũng đều phải trả giá bằng sinh mạng của hàng vạn dân thường.

    Về phái nữ cũng không kém chi phái nam
    “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,

    Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.“


    Mỹ nhân cũng giống như danh tướng, không thể hứa hẹn với người đời đến khi đầu bạc. Ý tương tự như "Tài hoa bạc mệnh" hay "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen", lòng trời cũng thích trêu chọc thử sức kẻ có tài.


    Cái qúy nhất của đời người phụ nữ, nhan sắc, tài năng thật chẳng muốn đối đầu chút nào với thời gian. Cảm nhận ý này, Nguyễn Bính, nhà thơ tài hoa mệnh bạc đa tình lìa đời năm 48 tuổi. Thơ vận vào đời, nhà thơ tài hoa viết bài “Viếng hồn trinh nữ”, khóc mĩ nhân sớm lìa trần :


    …Tôi với nàng đây không biết nhau,

    Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu?


    Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,

    Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.


    Có một lần tôi thấy trên facebook, nữ ca nhạc sĩ Vũ Hoài Trang phàn nàn rằng: “Thời gian tàn phá nhan sắc thật khủng khiếp“. Nên tôi mới làm thơ trêu chọc bông lơn tán tỉnh rằng:


    Kiếp Sau

    cảm xúc từ tấm ảnh ca nhạc sĩ Vũ Hoài Trang


    Kiếp sau ta lấy Hoài Trang

    Chính cung hoàng hậu dịu dàng thiết tha

    Chủ hôn đã có Hằng Nga

    Nhân duyên tiền kiếp gốc đa cuội hầu


    Núi sông hưng phế bể dâu

    Phong tình cổ lục đốt dầu mà xem

    Trăng non thao thức bên rèm

    Hương ngây man mát càng mềm màu da


    Ngẩn ngơ cát sĩ Lu Hà

    Bài thơ thuở trước mặn mà còn đây

    Kim bôi hợp cẩn vơi đầy

    Một nghìn đêm lẻ bấy chầy canh thâu


    Nỉ non gà gáy mưa ngâu

    Sương thu lã chã chân cầu sầu rơi!

    Bướm ong rầu rĩ lả lơi

    Thiên tình hoài mộng cõi người mấy ai


    Hỏi thăm rặng liễu Chương Đài

    Cành xuân lá thắm vẫn hoài chờ mong

    Trải bao thế kỷ chốc mòng

    Nôn nao nguyệt bạch theo dòng ái ân!


    28.5.2015 Lu Hà




    Để tránh diễn giải lan man khi lấn sang giới phụ nữ, ta đang bàn về khí khái nam nhi quân tử bậc trượng phu khi uống ruợu mà cảm khái thế sự thân phận mình


    “Lòng ta biết chí tang bồng quốc tổ

    Nghìn năm sau réo rắt tiếng đờn ca

    Dòng sông hương xõa tóc rặng tre ngà

    Hà tất phải cùng cỏ cây sầu thảm!“


    19.3.2017 Lu Hà

    Thoả chí tang bồng vốn là cách nói cho gọn của “Tang hồ bồng thỉ”. Tang là dâu, hồ là cung, bồng là cỏ bồng, thỉ là mũi tên. Tục truyền ở bên Tàu hễ đẻ con trai thì dùng loại cung tên này bắn sáu phát; bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời, còn một phát xuống đất. Ngụ ý của việc làm này là sau này trưởng thành, người con trai sẽ mang chí lớn ,hai vai gánh vác sơn hà,tung hoành dọc ngang giữa trời đất.


    Quốc tổ là tổ quốc.Ý nói làm thân trai tráng phải biết phụng sự tổ quốc



    Rót Chén Tiêu Dao

    Cảm hứng khúc ca của tác gỉa vô danh bên Tàu do Nguyển Bá Trác dịch


    “Hãy dốc cạn hồ trường

    Phun hơi tỏa bốn phương

    Như trận mưa mùa hạ

    Giọt sương rơi cố hương“

    Uống rượu giải buồn, tiêu dao ngày tháng thong dong, bạn cùng trăng gió, vui cùng non nước trời mây.

    Phái Tiêu Dao là một trong những môn phái trong tiểu thuyết của nhà văn Kim Dung. Tiêu Dao có nghĩa là tự do tự tại, thong thả đây đó. 4 câu tả người quân tử dốc bầu hồ trường phun hơi ruợu tỏa ra bốn phương nghĩ về thế giới và không quên nơi cố hương sinh ra mình


    “Tráng sĩ tuốt gươm sắc

    Hài cỏ chí tang bồng

    Rung chòm râu tóc bạc

    Say xưa chén rượu nồng“

    Bốn câu này tả người tráng sĩ võ hiệp như Kinh Kha, Yết Kiêu, Dã Tượng, đi dày cỏ của kẻ thảo dân mà mang chí lớn.


    “Thẹn lòng nghe Tỷ Can

    Cay đắng chuyện Chu Vân

    Xé gan lay cột trụ

    Tứ hải gót phong trần“

    Tỷ Can, Chu Vân là những danh tướng khảng khái chính trực


    “Múa bút vẽ câu thơ

    Thê lương áng trăng mờ

    Tủi hờn Phạm Ngũ Lão

    Sầu hận đời bơ vơ“

    Phạm Ngũ Lão là danh tướng nhà Trần. ông là cháu 8 đời của tướng Phạm Hạp thời nhà Đinh. Phạm Ngũ Lão đã ba lần cất quân đi trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao. Hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành buộc vua Chiêm là Chế Chí phải xin hàng vua Chế Năng phải bỏ chạy sang Java

    Không chỉ có tài về quân sự, mà ông còn để lại nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước.


    Rót nữa về phương đông

    Ứa tràn khắp cánh đồng

    Biển dâng sinh cuồng loạn

    Rụt cổ ngó mây rồng


    Một chén hướng phương tây

    Gía băng tuyết phủ dày

    Ôm cây đàn thổn thức

    Rưng rưng chén lệ đầy


    Nào ai tỉnh ai say

    Tha phương kiếp lưu đày

    Chén nam nhi hồ thỉ

    Nấm mồ xanh cỏ cây


    Hồ thương gọi hồ trường

    Nỗi niềm bao vấn vương

    Công ơn Nguyễn Bá Trác

    Bậc trượng phu cương thường!


    20.3.2017 Lu Hà

    Mấy khổ trên rất dễ hiểu, xin miễn bình giảng nhiều.

    6.4.2017 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share