Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 77 “Cả hai ngã cố khum mình lại Vạch lá cây ngần ngại chui vào Châu liêm ba bức khi nào Rồng leo cột vẽ rì rào vách tô Tòa sen nở tựa hồ ánh sáng Nhũ đá phô tỏ rạng sân chầu Rêu phong tí tách mưa thâu Suối nguồn róc rách mấy câu chữ đề Nguyên Chi Từ dãi dề y quán Quan trạng ngồi bạo dạn thầm thì Khôi ngô tướng mạo uy nghi Cân đai mũ áo đền nghì gió trăng Nơi hẻo lánh tuyết hằng phong nguyệt Cỏ chen cây da diết bướm hoa Mênh mông thảo dược chan hòa Hai chàng quỳ lạy trước tòa miếu hoang Xin phù hộ mọi đàng y thuật Cứu giúp đời thành thật tấm lòng Giàu nghèo chi quản long đong Trở ra rừng rậm cầu mong bóng người Thần báo mộng bao lời căn dặn Nhớ không quên sán lạn tương lai Chim kêu vượn hú vang tai Đào nguyên hun hút đường dài mênh mông Bốn mắt nhìn phập phồng lơ láo Bỗng thấy đâu ông lão bạc đầu Gậy lê lững thững bên cầu Cười khà hai chú đi đâu lối này? Ngư, tiều vội chắp tay kính cẩn Hai chúng tôi lẩn quẩn nơi đây Vòng vèo thất thểu bấy chầy Rừng sâu đá cứng chất đầy cỏ gai Thôi theo lão chỉ vài mươi dặm Xóm chẳng xa mấy đám ruộng cày Vườn dâu cây trái vui vày Chó tru gà gáy bạn bày cùng nhau Đãi cơm rượu trước sau kể hết Thuở Đại Đường thống thiết xiết bao Nơi này gọi làng Thanh Cao Từ năm chạy giặc Hoàng Sào tới đây Ông Cung Tử dạn dầy tửng trải Bảy chục năm chẳng ngại rừng sâu Giặc Liêu xâm chiếm U Châu Vân Lâm lập miếu bể dâu đoạn trường Nơi hang núi khói hương thờ cúng Thật anh linh cung phụng bốn mùa Ứng điềm mộng sự đêm qua Chân cầu đợi sẵn nhạt nhòa tuyết sương Hai thày cũng hỏi đường đúng lúc Thật là may phúc đức cho làng Ốm đau cần có thuốc thang Đông di thảo dược sẵn sàng có ngay.“ Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 78 Cả hai ngã như ngây thảng thốt Mới giật mình kể tuốt một hồi Ngậm ngùi than thở đầu đuôi Miếu thần mơ thấy nợ đời trả vay Đạo y vẫn xưa nay công tội Họa diệt môn lạc lối âm hồn Các thầy lo lắng bồn chồn Vực sâu thăm thẳm biển cồn sóng dâng Thầy địa lý bâng khuâng tư lự Cũng bần thần do dự hành nghề Thanh Ô đã có sách đề Sông ngòi đất bãi sơn khê tận cùng Nhìn sai hướng rợn rùng hủy diệt Phong thủy lầm thảm thiết oan khiên Tránh sao quả báo tương triền Nghề nào nghiệp ấy bách niên oán hờn Cõi nhân gian gặp cơn suy thịnh Chỉ mong thầy suy tính trước sau Ai hay phúc lợi chèn nhau Điềm trời báo ứng mau mau tỏ tường Kỳ Nhân Sư vẫn thường khuyên bảo Cổ chí kim thông thạo tri hành Thấy người sắp chết sao đành Lương y từ mẫu tiếng lành đồn xa Mới nán lại dần dà thăm hỏi Chữa vài người bệnh khỏi trong làng Rưng rưng ngấn lệ đôi hàng Cầm tay lão trường hai chàng ra đi Mùa nắng hạ thầm thì mai trúc Phủ Công Minh thúc giục lên đường Xông pha cát bụi dặm trường U Châu sầu não phố phường là đây Vào trong quán gặp bầy lính tráng Giải một người tội trạng ra sao Hỏi ra là ngã thuốc cao Việc chi đến nỗi xiềng vào cổ chân? Thích kim ấn sát nhân trọng án Biển bắc đày không hạn trở về Chung thân rên rỉ não nề Thói quen sinh nghiệp tử nghề nấu cao Rừng củ đọt tào lao chế biến Thuốc bán rao “vận kiển thời quai” Chẳng ngờ thuốc độc giết ai Chứng phong uống phải tuyền đài thất kinh Ngư, Tiều nghe giật mình nhớ lại Miếu trạng nguyên quan ải cách xa Minh Công phủ lại dẫn ra U minh hai chữ sa đà lang băm Tội đáng chết băm vằm thân xác Nho không thông thuốc sắc lem nhem Nhẫn tâm khóa cửa buông rèm “Mân“ coi ra “kiển“ “lỗ” nhèm ra “ngư“ Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 79 Hoặc dở sách y thư sằng bậy Luận quàng xiên vơ lấy bạc tiền Huyênh hoang giấy lộn địa biên Vịt vờ phương hướng đảo điên cầu tài Lắm đứa vốn sơ sài nghề nghiệp Chẳng biết gì dậu liếp phên thưa Màn the quen thói lọc lừa Lưới che mắt thánh đò đưa điếm đàng Gỉa làm bộ vênh vang kiêu ngạo Đàn hủ nho lếu láo chê khen Lộn sòng đổi trắng thay đen Đầu dê thịt chó nhỏ nhen hẹp hòi Thích bả lả ăn chơi xả láng Bệnh hiểm nghèo đểu cáng kê đơn Ếch ngồi ngồi đáy giếng lên cơn Vòm trời thăm thẳm thờn bơn méo mồm Bầy cóc nhái chồm hôm bàn độc Hội kinh doanh bán thuốc hại người Người thành chuột bạch trò cười Nghìn thu bia đá miệng đời tanh tao Mộng Thế Triền cùng Bào Tử Phược Giữ đạo nhà theo bước thày ta Thuyền câu chở nặng một khoa Tiểu nhi chẩn bệnh chính tà phân minh Vung cán búa các kinh mạch hiểu Dựng quán y đạo hiệu Minh Châu Vợ con làng xóm nguyện cầu Ngư, Tiều cải nghiệp công hầu ích chi Dù có chỗ bất tri y lý Tới Đan Kỳ lãnh ý Tôn sư Chân truyền bí quyết thiên tư Phụ khoa dư sức y thư bệnh lành Giỏi nhi khoa sáng danh Tử Phược Bạn đồng môn dẫn bước đường cho Thế Triền sớm tối chăm lo Đàn bà chữa chạy đạo nho hết lời Chuyện ly kỳ ai ơi đã đọc Bệnh thế gian hiểm hóc khó lường Ngư, Tiều vấn đáp tỏ tường Sáng soi hậu thế tình thương nhân loài Bệnh hậu sản bi ai thảm thiết Kể từ nay đã triệt được rồi Trái tim nhịp đập bồi hồi Hương lài phảng phất núi đồi bướm hoa Mộng phu nhân nhạt nhòa ngấn lệ Lại thụ thai con trẻ chào đời Thong dong túi thuốc thảnh thơi Cứu nhân độ thế muôn người nhớ ơn! Xin hết truyện giận hờn bịn rịn Bạn đời ơi bảy chín bài thơ Sông Hương sóng vỗ đôi bờ Nhịp cầu thân ái ngẩn ngơ ái tình! *Nguyên tác thơ lục bát: “Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp“ Cả 3 bài thơ này là phần kết thúc có hậu của tập thơ song thất lục bát dài của tôi kể về cuộc đời hai chàng nho sĩ Mộng Thế Triền và Bào Tử Phược, vì sống trong cảnh nước mất nhà tan, đường công danh thi cử lận đận nên buộc phải làm nghề kiếm củi và chài lưới để nuôi gia đình. Mộng Thế Triền gọi là Tiều Phu còn Bào Tử Phược là Ngư Phủ. Gia cảnh hai người đều gặp nhiều tai ương, Triền thì mấy đời vợ đều mắc bệnh hậu sản sau khi sinh đẻ và qua đời, còn bà vợ cuối cùng cũng ốm đau quặt quẹo là lý do để chàng trở thành thày thuốc phụ khoa chuyên chữa trị bệnh đàn bà, còn Bào Tử Phược sinh ra lắm con nhưng phần lớn đều bị bệnh chết sớm là lý do để chàng trở thành thày thuốc nhi khoa. Tuy cả hai đều không có may mắn gặp mặt vị Tôn sư lão luyện y thuật là Kỳ Nhân Sư nhưng lại được hai thày thuốc giỏi cũng coi như bạn đồng môn học chữ nho ngày xưa là Châu Đạo Dẫn và Đường Nhập Môn truyền nghề cho y cho. Vì tình cảnh đất U Châu, Yên Châu bị chia cắt và đặt dưới sự đô hộ của ngoại bang, nên cả hai người đều muốn đi tìm thầy học thuốc. Họ đều có ý định đi tìm Nhân Sư là một thầy thuốc rất giỏi và cũng là người đất U, Yên đi ẩn cư. Mộng Thê Triền và Bảo Tử Phược là hai người bạn cũ, bị hoàn cảnh loạn ly mà xa cách nhau từ lâu, gặp lại nhau trên đường đi tìm Nhân Sư. Đạo Dẫn và Nhập Môn là những người đã biết chỗ ở của Nhân Sư. Vì họ đã đều biết thuốc, nên trên đường đi Ngư, Tiều hỏi chuyện về y học rất nhiều. Đạo Dẫn và Nhập Môn lần lượt trả lời những câu hỏi của Ngư, Tiều và giải thích một cách rõ ràng nhiều điểm về lý luận y học cơ bản, kèm theo ca, phú mà phần chính lấy ở y học nhập môn ra. Giữa đường, Châu Đạo Dẫn tìm đường đi luyện đan (tu Tiên), còn Ngư, Tiều thì theo Đường Nhập Môn tiếp tục đi đến Đan Kỳ để tìm Kỳ Nhân Sư, Nhưng khi đến nơi thì Nhân Sư đang bị bệnh và lánh ở Thiên Thai, song họ được gặp lại Châu Đạo Dẫn ở đây. Hỏi ra mới biết là Kỳ Nhân Sư không phải là bị bệnh thật mà là vì vua Liêu nghe tiếng cho sứ đến mời Nhân Sư vào làm Ngự Y, nhưng Nhân Sư không muốn làm tôi kẻ thù nên đã xông hai mắt cho mù, rồi lánh về ở Thiên Thai và lưu học trò là Đạo Dẫn ở lại Đạo Kỳ để từ chối với sứ Tây Liêu. Ngư, Tiều không được gặp Nhân Sư và cũng không ở lại để đợi Nhân Sư trở về. Nhưng Nhân Sư đã để lại hai bài dạy phép dùng thuốc (một bài luận về tiêu bản, một bài nói về phép chữa tạp bệnh). Ngư, Tiều lãnh hai bài đó rồi trở về. Sau khi từ biệt Đạo Dẫn và Nhập Môn; Ngư, Tiều dự định sẽ bỏ nghề cũ để đi làm nghề y. Đêm đi lạc đường trong rừng, vào ngủ ở một cái miếu trong hang, nằm mê mộng thấy xử án các thầy thuốc: Thầy châm cứu chữa xằng; Thầy pháp, thầy chùa gieo rắc mê tín dị đoan vân vân và vân vân… Khi tỉnh ra Ngư, Tiều mới biết đó là những lời răn, nên khi về nhà, cả hai người đều ra công học thuốc cho thật giỏi, thấu đáo, rồi chuyên mỗi người một khoa. Ngư chữa bệnh nhi khoa, Tiều chữa bệnh phụ khoa. Họ đều trở nên những thầy thuốc lành nghề và chân chính. Tôi đã để cho vợ Mộng Thế Triền mang thai là cũng muốn học theo cụ Nguyễn Du trong đoạn tái hồi Kim Trọng, không muốn để nàng Kiều tự vẫn chết oan uổng ở sông Tiền Đường. Phải nói rằng từ thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 19 ở Việt Nam ta truyện thơ bằng chữ Nôm rất phát triển. Vì do chế độ phong kiến cai trị hà khắc và các nhà nho rất dị ứng với các văn sĩ khoáng đạt thơ ca tài tử chuyên miêu tả về ái tình, các cụ cho là dâm thư, lên án phê phán thiên lệch thiển cận, nên có nhiều tác phẩm rất hay lại khuyết danh. Tôi đang chuẩn bị cho ra đời tập thơ truyện tình mới cảm xúc từ truyện thơ lục bát: “ Truyện Phan Trần“ thành Truyện thơ song thất lục bát. Tôi đang suy nghĩ nên đặt tên tác phẩm là gì cho thích hợp? Có câu ca dao rằng:“ Đàn ông chớ đọc Phan Trần Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều“ Chuyện thơ về đông y thảo dược tưởng như bị lãng quên trong dòng thơ ca Việt Nam. Cụ Nguyễn Đình Chiểu viết bằng lối thơ lục bát nặng chất miệt vườn Nam bộ. Theo tôi hiện nay chỉ có hội văn học quê hương Cụ là còn trân trọng những sáng tạo văn hóa, di sản tinh thần của quê hương mà đăng lên mạng, lại may mắn lọt vào đôi mắt Lu Hà, mà được tái tạo sống dậy bằng thể thơ song thất lục bát. Tôi đã lược bỏ những đoạn chi tiết rườm rà trong thơ lục bát, cố gắng viết cho vần điệu trau chuốt sang thơ song thất lục bát, phải hơn 2 tháng dài dòng dã mới xong tập thơ này. May mắn thay lại được Thu Hà kịp thời diễn ngâm rất phù hợp với hoàn cảnh thời sự bệnh tật hiện nay, dịch cúm Corona đang hoành hành đày đọa làm khổ nhiều người. Gọi là ôn cố tri tân, chuyện cũ chuyện mới chẳng khác gì nhau. Ý nghĩa của tập thơ rất đáng được để mọi người có lương tri trí tuệ suy nghĩ. Rất trân trọng cám ơn nghệ sĩ Thu Hà. Công bằng mà nói viết theo thể lục bát như Cụ Nguyễn Đình Chiểu không thể diễn ngâm được, may ra chỉ có thể đọc như Truyện Lục Vân Tiên mà các má, các lão ông miền Nam rất thích đọc theo lối kể chuyên, có ca dao là: “Vân Tiên, rồi lại Vân Tiên Cho tôi đồng tiền, tôi kể Vân Tiên.“ Nghe Thu Hà lúc diễn đọc lúc ngâm nga diến tấu thơ song thất lục bát, thật là thú vị. Gọi là đôi dòng bình luận tâm sự chân tình của tôi trên Facebook. Thời gian này Lu Hà tôi, đang sáng tác tiếp tập thơ song thất lục bát tên là Thiên Thu Tình mộng của một tác giả khuyết danh. Truyện Phan Trần cũng bằng thể thơ lục bát. Tập thơ tình lục bát này khá điêu luyện sau Truyện Kiều của Nguyễn Du mà sao không thấy ai ngâm nga Truyện Phan Trần nhỉ? Hồng Vân một giọng Huế rất mùi mẫn mê ly ngâm trọn bộ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Thu Hà cũng ngâm trọn bộ tập Tài Mệnh Tương Đố của Lu Hà, nhưng bọn xấu bụng tiểu nhân hèn mọn bất tài đểu giả nó lăn xả vào tân công hay nó dụ dỗ thế nào mà Youtube xóa mất tiêu tất cả. Sao chúng nó không hằn học với Hồng Vân ngâm Kiều mà lại hằn học với Thu Hà ngâm Tài Mệnh Tương Đố? Hồng Vân ngâm có tiền, có lương tháng, có nhận cátxê (thù lao) đầy chặt bị. Còn Thu Hà ngâm miễn phí chẳng ai chi cho một xu rỉ cachet nào dính túi mà cũng bị đánh phá dã man , thật là bất công, bất nhân vô cùng. Song thất lục bát của tôi cũng kể về cuộc đời cô Kiều nhưng tình thương của tôi dành cho nàng Kiều có khác với Nguyễn Du. Dưới con mắt cuả tôi Hoạn Thư không đáng ghét, có chỗ lại thấy đáng yêu. Thật tiếc trên Youtube mất tiêu Tài Mệnh Tương Đố, Trung Hiếu Nghĩa Hiệp cũng tả về cuộc đời chàng Lục Vân Tiên bẳng thơ song thất lục bát vân vân và vân vân .... Lần đầu tiên trong cuộc đời làm thơ của Lu Hà tôi và có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử 4 hay 5 ngàn năm của dân tộc Việt Nam một truyện thơ viết về y thuật lại được diễn ngâm. Cái ý nghĩa thời sự nóng hổi câu chuyện về nghề thuốc lương y và độc y lại sảy ra trước mắt một cách cụ thể, đắng cay chua chát vô cùng. Mạng sống của chính mình còn coi thường rẻ rúng không đáng nghe đáng quan tâm thì thử hỏi con người là cái thứ chi? Cám ơn Thu Hà đã có tấm lòng không chỉ với người Việt Nam mà còn cả với toàn thể nhân loại. 24.5.2020 Lu Hà