Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 226

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Tháng 5 18, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 71


    “Trở tay biến phép y bất lực

    Nhiệt lạ thường tới mức thân hàn

    Khi hư lúc thực mê man

    Nóng lâu nhức nhối lấn tràn đậu lên


    Mọc vẩy kết vội nên thanh giải

    Thần công càng trở ngại hãm thông

    Lộc nhung khí huyết chẳng đồng

    Khí hư hôi bạch chất chồng thiên kim


    Huyết hư tử hắc chìm khó thấy

    Lại có nhiều hoa trái khác tên

    Ai từng trị đậu mà quên

    Bất tuân gia giảm khùng điên tầm phào


    Mày lại ỷ sẵn dao cầu cắt

    Thuốc bốc bừa mưu sát hại người

    Cha con nghiệp ác hai đời

    Âm hồn đòi mạng gậy roi phang đầu


    Quan đập bàn bay đâu lão Cứu

    Bó kim châm còn dấu được sao?

    Một đoàn nhân chứng xôn xao

    Hắn châm sai huyệt lẽ nào bỏ qua


    Đã nhiều năm xuê xoa xằng bậy

    Chọc linh tinh buốt tấy làn da

    Tật tàn què quặt rên la

    Trẻ già trai gái kêu ca công đường


    Sách châm cứu Minh Đường hình vẽ

    Mười hai kinh huyệt sẽ điểm đầu

    Phép châm phép cứu nhiệm mầu

    Bổ hư tả thực nông sâu có chừng


    Chẳng thông thuộc lạc rừng phá lối

    Đau ở đâu tội lỗi gây ra

    Châm vào máu chảy loang da

    Cứu thì nát thịt thẹo chà toàn thân


    Châm cứu đểu vô luân cục xúc

    Chẳng khác chi tù ngục khảo tra

    Cấp kinh chứng vốn cấm la

    Dám đem ngải hỏa khói tà phong bay


    Chứng ung phải bảy ngày ngoại trị

    Lại còn đem ngải vị độc vầy

    Đốt thêm lửa nóng tại mày

    Thầy nào dạy láo hại bầy sinh linh?


    Dám cả gan phép hình tự lập

    Lừa lọc tiền vồ vập ăn chơi

    Ngang nhiên chẳng sợ lưới trời

    Khinh thường phép nước hại người hiền lương


    Lệnh truyền xuống kỷ cương nghiêm trị

    Vồ nọc căng thần trí thất kinh

    Cứu kêu con học thầy Đinh

    Ba năm ráng sức đợ mình trả công


    Phép thầy dạy vốn không hình vẽ

    Đồ Minh Đường rành rẽ gì đâu?

    Thật tình nghe thấy lần đầu

    Vợ con nheo nhóc dãi dầu nắng mưa.“



    Châm cứu là thủ thuật chèn và thao tác kim hình chỉ vào một điểm cụ thể trên cơ thể để giảm đau hoặc cho các mục đích điều trị.


    Y học phương Tây chưa tìm ra đầy đủ bằng chứng xác nhận tác dụng của châm cứu và các dụng cụ châm cứu không được khử trùng có thể lây nhiễm mầm bệnh. Châm cứu được xem là giả khoa học vì các lý thuyết của nó không dựa trên khoa học


    Châm cứu là một từ Hán-Việt. Châm có nghĩa cái kim, động từ có nghĩa là dùng vật nhọn (như kim, que nhọn...) đâm vào hoặc kích thích vào huyệt. Cứu có nghĩa là dùng nhiệt (hơi nóng) tác động lên huyệt.

    Thời thượng cổ người ta dùng đá mài nhọn để làm kim châm. Sau đó cùng với sự phát triển của kinh tế và kỹ thuật, vật liệu làm kim không ngừng thay đổi, từ kim bằng đá mài đến kim đồng, kim sắt, kim vàng, kim bạc và ngày nay là kim bằng thép không gỉ và kim loại dài.


    Có nhiều loại kim châm khác nhau. Nhưng ngày nay trong châm cứu ta thường dùng năm loại kim chính gồm:


    - Kim nhỏ: (hào châm). Hình dáng giống hào châm cổ, nhưng kích thước hơi khác, có nhiều loại dài ngắn khác nhau (từ 1 tấc đến 3 tấc). Dùng nhiều nhất trong châm cứu.

    - Kim dài: (trường châm). Hình dáng giống như trường châm cổ, nhưng ngắn hơn một chút. Thường dùng để châm huyệt Hoàn khiêu, nên quen gọi là kim Hoàn khiêu.

    - Kim ba cạnh: tương tự phong châm hồi xưa, kim có 3 cạnh sắc. Dùng để châm nông vào da cho chảy máu.

    -Kim cài loa tai: là loại kim mới. Dùng để găm vào da và lưu lâu ở hoa tai.

    Kim hoa mai: cũng là loại kim mới. Dùng để gõ lên mặt da





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 72


    “Vì túng quẫn chữa bừa thiên hạ

    Châm tò mò trí trá biết chi

    Mèo đồng gà mả chim di

    Cờ đen bướm trắng tỉ ti rối bời


    Con liều mạng thử chơi mấy chuyến

    Rồi quen ăn tính chuyện lâu dài

    Đau đâu chọc đó cứu hoài

    Lợn lành thành tật tuyền đài tiễn đưa


    May rủi cứ say xưa bốc ẩu

    Phán quan đồ hậu đậu vô luân

    Thuốc mày học lỏm mấy lần

    Oan gia trái chủ sát nhân làm tiền


    Bởi dân chúng triền miên nghèo khó

    Lang băm vườn mượn cớ hành nghề

    Đua nhau lạc nẻo u mê

    Thân tàn ma dại sơn khê não nùng


    Qủy thần cũng hãi hùng tang tóc

    Bất kể ai thảm khốc giàu nghèo

    Đời như chiếc lá bay vèo

    Hồn ma thất thểu còng queo xác người


    Thà buôn bán vốn lời nặng lãi

    Ít oán thù tổn hại căm hờn

    Còn ngươi thày thuốc kê đơn

    Bốc từng thang độc thờn bơn méo mồm


    Bệnh kiết lỵ chồm hôm chổng tĩ

    Ngươi châm bừa mụ mị người ta

    Sặc mùi ngải cứu máu ra

    Há mồm miệng cá hồn ma thăng hà


    Thày thuốc đểu gian tà hiểm ác

    Quân bay đâu nọc xác nó ra

    Kim châm lửa đốt nát da

    Vạc dầu giãy giụa kêu la thét gào


    Kế tiếp lão Tam sao hỏi tội

    Thuốc bắc còn trộn với thuốc nam

    Lem nhem chữ nghiã tối tăm

    Nửa nam nửa bắc lam nham hai phần


    Xưa bản thảo chân nhân đi trước

    Có hơn nghìn vị thuốc rõ biên

    Trải bao kinh nghiệm thánh hiền

    In thành kinh sách rộng truyền y khoa


    Sách Bổ di hiệp hòa thêm nữa

    Thiếu gì phương chạy chữa bệnh nhân

    Nay ngươi nam bắc cù lần

    Cầu dao lếu láo sát nhân hại đời


    Kẻ tục y học đòi nếm thuốc

    Dám so bì cá cược mạng người

    Lang băm để lại tiếng cười

    Nghìn năm bia đá miệng đời mỉa mai


    Hốt gạo lứt mấy ai tre đọt

    Đoan ngọ kia lá lót trị gì?

    Bắc nam lẫn lộn loạn bì

    Gây bao điều tiếng thị phi oán hờn.“


    Có rất nhiều người đã từng dùng thuốc Bắc hoặc thuốc Nam nhưng không phải ai cũng biết tại sao lại gọi tên như vậy. Và sự khác nhau giữa thuốc Bắc và thuốc Nam như thế nào?

    Thuốc Bắc là gì? Thuốc Bắc là cách gọi từ xưa của người dân Việt Nam ta đối với các loại thuốc sử dụng trong đông y của China ( Tàu). Gọi là thuốc Bắc để phân biệt với các loại cây thuốc trồng trong nước ( thuốc Nam) theo y học cổ truyền Việt Nam.


    Thuốc Bắc thường được bào chế theo cách phơi khô, sấy.

    Kê thuốc Bắc:


    Khi chuẩn đoán bệnh, các thầy thuốc thường chuẩn đoán bằng bắt mạch hoặc nhìn sắc thái mặt để chuẩn đoán. Sau khi chuẩn đoán xong thầy thuốc thường kê nhiều loại thuốc Bắc phối hợp với nhau theo một phương thức và tỷ lệ nhất định vào trong một đơn vị gọi là thang thuốc.


    Thuốc Nam là gì? Thuốc Nam là chỉ những loại thuốc, thảo dược xuất phát từ trong nước hay còn gọi là thuốc ta để phần biệt với loại thuốc có nguồn gốc từ Tàu ( thuốc Bắc). Các vị thầy thuốc nổi tiếng được xem là bậc tổ của nghề y Việt Nam là Hải Thượng Lãn Ông với câu nói nổi tiếng”Nam dược trị Nam nhân” – thuốc Nam dùng chữa bệnh cho người Nam.


    Cũng giống như thuốc Bắc, thuốc Nam cũng được bào chế bằng cách phơi khô, sấy. Đặc tính của thuốc Nam là từ những cây trồng bản đia rất quen thuộc với người Việt Nam.

    Làm thế nào để phân biệt được thuốc Nam và thuốc Bắc?


    Hầu hết các loại thuốc này đều được làm từ thảo mộc và nhìn qua thì rất khó phân biệt được? Với người bình thường không thể phân biệt được, chính vì vậy hãy chọn nhưng cơ sở uy tín để khám và bốc thuốc.

    Vì Thuốc Bắc đắt hơn thuốc Nam nên thuốc Bắc tốt hơn thuốc Nam ?


    16.5.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share