Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 69 “Rừng văn biển học mù sương phủ Đấng tài hoa chẳng phụ tấm lòng Chân nhân luyện hạt gieo trồng Tuy ngồi một chỗ hanh thông đất trời Nho, y, lý, đạo đời chăng chớ Toán, bốc càng rạng rỡ Thái san Thầy xem khí tượng thiên văn Lời ngay cặn kẽ chứa chan mấy hồi Hàng chục pho trau dồi kiến thức Sách Đan Khê y học vẹn tuyền Có câu “y bát chân truyền“ Anh em kết nghĩa đào viên kém gì? Lời thầy dạy khắc ghi lòng dạ Ngư, tiều đành từ dã ra về Nhập Môn đưa khỏi Liễu Khê Tình huynh nghĩa đệ dãi dề chia ly Thác nước chảy ầm ỳ vội vã Nắng ban mai vách đá bồn chồn Ngư, Tiều quẩy gánh đi luôn Ngoảnh đi than thở lệ tuôn đôi dòng Búa rìu mục long đong ngày tháng Tấm lưới sờn cay đắng xót xa Quan san muôn dặm sơn hà Non xanh nước biếc bao la đất trời Nào ai hay nửa đời đổi bước Bỏ rừng xanh sông nước theo nghề Y khoa nay đã nguyện thề Cứu nhân độ thế đồng quê thị thành Bậc đại phu xứng danh nho sĩ Trọn hai trăng kiên nghị dẻo dai Ngày thương tháng nhớ u hoài Xa nhà nặng gánh đôi vai nhọc nhằn Biết bao nhiêu gian nan vất vả Đặng gắng mình mài đá thành kim Tiểu nhi khỏi mất công tìm Lương y từ thiện trái tim mẹ hiền Ngày mai nhé dời thuyền ngư phủ Gánh hành trang đầy đủ kim châm Xọt đeo hái thuốc âm thầm Quẳng dìu xó bếp thành tâm cứu người Cả hai ngã nói cười rôm rả Nửa ngày đi bóng ngả quang âm Mừng thay ra khỏi Y lâm Bỗng đâu chớp giật ầm ầm sấm vang Mây đen tới vội vàng tìm chỗ Gió mưa phun đây đó rậm rì Nát nhàu cây cỏ đường đi Vắng tanh dấu thỏ chim di lạc đàn Nhìn ngơ ngác ngút ngàn sơn cước Vái lâm quân chỉ bước chân đi Thấy ngay hang đá tức thì Dây leo chằng chịt đầm đìa hạt mưa.“ “y bát chân truyền“: Cái áo cà sa và cái bát đi xin ăn của nhà sư, khi chết đi thì trao lại cho đồ đệ. Y bát chân truyền ý nói người học trò học được hết cái sở học chân chính của thầy. Kết nghĩa đào viên? Tiểu thuyết nổi tiếng "Tam Quốc diễn nghĩa" của tác giả La Quán Trung từng có đoạn: Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi ba người tâm đầu ý hợp, quen biết không lâu đã kết bái huynh đệ tại vườn đào Trương gia. Cũng kể từ đó, ba người huynh đệ khác họ ấy đồng tâm hiệp lực, lập nên Thục quốc, một trong ba ba thế lực tạo thành "thế chân vạc" thời Tam Quốc. Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 70 “Thật khéo thay cũng vừa đủ chỗ Hai chàng bèn lọ mọ chui vào Giở ngay cơm nắm khi nào Nhập Môn gói sẵn nghẹn ngào sư huynh Đi mùa xuân nắng tình hoa bướm Mùa hạ về mưa đợm cỏ cây Ve sầu rả ríc vui vầy Cuốc kêu tu hú vượn bầy râm ran Gió hiu hắt bạt ngàn mai trúc Lòng xốn xang thúc giục đôi chân Thình lình trống đánh rất gần Giật mình há hốc quan quân tiến vào Cúi lom khom chào rào lấp ló Đuốc sáng chưng rõ tỏ mặt người Cờ vuông lỗ bộ đứng coi Cánh chuồn nghiêng ngó xăm soi lạ lùng Một quan lớn ung dung chễm trệ Kiệu lọng vàng thị vệ xếp hàng Giáo gươm hùng hổ nghênh ngang Ngư Tiều khép nép ngỡ ngàng bước ra Có năm ngã kêu la thảm thiết Cổ đeo gông dây xiết cổ tay Oan khiên chen chúc một bầy Công đường thảm thiết đơn đầy một mâm Quân áp giải ầm ầm sát khí Hương án xông chuẩn bị đăng đàn Trước sân kìm, kẹp, roi, giàn Lệnh truyền sĩ tốt phạm nhân bắt quỳ Trống nổi lên quân uy soi mói Lão Đậu kia bị trói dẫn vào Hỏi làm thày thuốc khi nào? Đậu khoa phương pháp âm hao tỏ tường Chữa trị bậy bất thường táo tợn Chết nhiều người gốc ngọn cung khai Đậu rằng vốn chẳng học ai Nhờ cha thuốc trái mấy bài để cho Ba ngày trái phì phò mới phát Dùng thang thanh lường gạt mát rồi Sáu ngày trái mọc than ôi Thần công tán hốt cố bồi cho xong Bệnh thành nặng chẳng mong chữa khỏi Nghề lang băm lại giỏi mánh mung Chín ngày trái chẳng quán nung Tranh nhau cố hốt lộc nhung thang thầy Mười hai ngày đóng dày mưng mủ Nội thiên kim thác ủ bệnh ngay Thật ra chẳng rõ thang này Phép cha thanh biểu độc quay quắt hoài Quá kỳ trái dằng dai nóng sốt Phép cha truyền cứ hốt thang bừa Dửng dưng kinh sách xa xưa Đậu sang mấy bữa hay chưa bất kỳ“ Đậu mùa là một căn bệnh truyền nhiễm của riêng loài người. Đậu mùa có tên gọi tiếng Latinh là Variola hay Variola vera, trong đó từ varius có nguồn gốc nghĩa là "có nốt", hoặc varus, nghĩa là "mụn nhọt". Đậu mùa gây bệnh trong các mạch máu nhỏ ở da, miệng và cổ họng. Ở vùng da, bệnh gây ra những vết ban nổi sần đỏ đặc trưng, sau đó da bị phồng rộp những vết sần chứa nước Đậu mùa xuất hiện vào khoảng 10.000 năm trước Công nguyên. Chứng tích xưa nhất của bệnh đậu mùa là những vết mụn mủ trên xác ướp của Pharaon Ramses V thời Ai Cập cổ đại. 14.5.2020 Lu Hà