Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 36 “Tổ sư dạy Hiên Kỳ trước hết Quẻ Bào Hy phải thiệt tỏ tường Tiều phu hỏi tượng Minh Đường Là đồ khí hậu chủ chương lẽ gì? Môn trả lời hai nghì trên dưới Bức họa này vời vợi thiên tri Giống như soạn thảo kinh thi Người kia vật nọ tóm ghi lược đồ Vẽ mười vòng cùng phô một nhóm Khí hậu coi từng xóm ứng nhau Năm ngày một hậu bồ xâu Rõ ngay ba hậu bắt đầu tính coi Được một khí sáng soi tỏ dạng Hai khí thành một tháng kể ra Đất trời vận chuyển bao la Giáp mười hai tháng ấy là một niên Một năm tự thiên nhiên riêng biệt Có bốn mùa nhất thiết tạo nên Hai mươi bốn tiết theo liền Xây hai chục tám sao biên sách trời Ba mươi sáu cung thời xuân đến Đều nhịp nhàng sinh biến xoay vần Mỗi năm khí hậu tần ngần Mười vòng lớn nhỏ bần thần thủy chung Bởi việc đời tận cùng bác vật Mười vòng xoay trời đất một hồ Lặng lòng coi bức thư đồ Ba ngàn thế giới nhấp nhô thấy bờ Tuyệt tác thay hoang xơ cây cỏ Sách châm kim lại có ba hình Mỗi khi thập tử nhất sinh Cao minh y thuật gọi Minh Đường đồ Hình nằm sấp để đo kinh túc Huyệt dò tìm thành thục sau lưng Thái dương chớ có lừng khừng Một hình nằm ngửa coi chừng Dương minh Còn hình ngồi đinh ninh một mé Túc thiếu dương rành rẽ hai bên Ba hình lập được một nền Ba trăm sáu chục năm tên tuyệt vời Coi kinh lạc tới nơi tới chốn Đồ Đường minh đủ trọn độ trời Một niên thủ túc ai ơi Ba âm liền với ngoài thời ba dương Mười hai kinh chia đường mấy lớp Có sau du sáu hợp thường châm Người nào đau đớn kinh âm Huyệt du chọc đúng thoát mầm tai ương Tam tiêu, mật, huyệt thường bọng đái Dạ dày kia với lại ruột gìa Ruột non gan thận trau tria Kinh dương thoát hiểm bên rìa rừng hoang“ Đức Phật dạy rằng: -“Trong tấm thân một trượng nầy, chứa cả Tam Thiên Đại Thiên thế giới”. Trong một con người của mỗi chúng ta, chứa cả Tam Thiên Đại Thiên thế giới nghĩa là: Ba ngàn “Đại Thiên thế giới”. Dùng từ nầy hàm ý một con số, về số lượng thế giới rất là rộng lớn vậy. Theo kinh điển diễn tả số lượng thế giới trong vũ trụ nầy vô lượng vô biên. Có rất nhiều thế giới vây quanh mặt trời, tạo thành một Hệ Mặt Trời; Có nhiều Hệ Mặt Trời, tạo nên Tiểu Thế Giới; Có rất nhiều Tiểu Thế Giới, hợp thành Trung Thế Giới; Có nhiều Trung Thế Giới, tạo thành Đại Thế Giới… Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 37 “Kinh sáu phủ thênh thang ta đếm Bảy mươi hai huyệt chiếm tay chân Kinh âm năm tạng từng phần Sáu mươi lỗ huyệt cao nhân chia đều Sáu đối sáu sách nêu trên hết Thành thơ ca rõ thiệt âm dương Mười hai huyệt đạo tỏ tường Sáu bài khí huyết vẫn thường viết ra Phép châm cứu người ta ca ngợi Mười tám bài vời vợi sáng thông Huyệt kinh phải đọc thuộc lòng Dương kinh lục phủ xuôi dòng vinh du Tiều thán phục thiên thu vạn đại Ngư đồng tình phải trái phân minh Mười hai kinh nguyệt thuận tình Hơi dồn máu chạy nhân sinh muôn loài Luận khí huyết sáu bài hoan lạc Môn khen hay chẳng khác thánh ca Mỗi câu mỗi huyệt xem ra Bắt đầu từ phế chạy qua đại trường Xung phủ đến thiếu dương biết trước Mối theo đường hung ức ngón tay Thương dương cũng đến chỗ này Chạy lên trước mũi tên bày nghênh hương Khấp tủa xuống dưới đường ấn bạch Vị với tỳ tới nhánh ngón chân Lệ đoài xin chớ tần ngần Ai hay vú tả rào phần đại bao Ao tiểu trường vào ba tâm chủ Huyệt cực tuyền tột chỗ da xương Hữu ra ngón út đầu đường Thiếu xung thiếu trạch tả thông trong ngoài Phần thính cung ở tai bên tả Dài chí âm mới hạ bài tư Tình minh gốc mũi như từ Giữa bàn chân giữa xem như dũng tuyền Đến du phủ tả biên phủ huyệt Chiều trung xung khẩn thiết thiên trì Quan xung ngón cái đen sì Trúc ty huyệt ấy như di chặng này Y thuật cao can vầy sáu đảm Đồng tử ra gò má tả cầm Ngón chân út rõ khiếu âm Thẳng bên vú hữu âm thầm kỳ môn Vòng khí huyết đóng đồn răm rắp Mười hai kinh lạc khắp ngày đêm Trong ngoài chuyển vận êm đềm Rồi nhanh như ngựa hòa mềm xa đi.“ Theo sư phụ Google: Kinh lạc là đường khí huyết vận hành trong cơ thể, đường chính của nó gọi là kinh, nhánh của nó gọi là lạc, kinh với lạc liên kết đan xen ngang dọc, liên thông trên dưới trong ngoài, là cái lưới liên lạc toàn thân. Kinh lạc phân ra hai loại kinh mạch và lạc mạch.Trong kinh mạch gồm chính kinh và kỳ kinh, chính kinh có mười hai sợi, tả hữu đối xứng, tức thủ túc tam âm kinh và thủ túc tam dương kinh, gọi chung mười hai kinh mạch, mỗi kinh thuộc một tạng hoặc một phủ. Kỳ kinh có tám sợi, tức đốc mạch, nhâm mạch, xung mạch, đái mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm kiểu mạch, dương kiểu mạch. Thông thường nhắc đến mười hai kinh mạch và thêm vào hai mạch nhâm đốc gọi chung mười bốn kinh mạch chính. Tác dụng sinh lý của kinh lạc là Hành khí huyết, dinh âm dương, nhu cân cốt, lợi quan tiết (lưu thông khí huyết, dưỡng âm dương tố chất, nuôi dưỡng các cơ quan), trong thuộc tạng phủ, ngoài lạc chi khớp, thông trong đạt ngoài, vận hành khí huyết, liên hệ toàn thân, để duy trì bình thường công năng sinh lý cơ quan tổ chức cơ thể. Ngũ tạng, lục phủ, tứ chi, ngũ quan, cửu khiếu, bì nhục cân cốt… của cơ thể, đều phải nhờ liên hệ của kinh lạc với sự dưỡng nuôi của khí huyết, mới có thể phát huy công năng của nó, đồng thời hỗ tương hiệp điều thành một chỉnh thể hữu cơ. Ý nghĩa bệnh lý của kinh lạc Ở tình huống bệnh lý, kinh lạc có liên quan với sự phát sinh và truyền biến của bệnh tật. Ngoại tà xâm phạm cơ thể, nếu tác dụng bảo vệ phần ngoài của khí mất bình thường, bệnh tà sẽ men theo đường kinh lạc mà truyền vào tạng phủ. Ngược lại, tạng phủ có bệnh, cũng sẽ men theo đường kinh sở thuộc mà thể hiện những triệu chứng tương ứng đến phía ngoài cơ thể. Nhưng thứ truyền biến này chỉ có thể là tương đối, có phải truyền biến hay không, còn phải xem các nhân tố như tính chất mạnh yếu của bệnh tà, chính khí của cơ thể thịnh suy, trị liệu thích hợp hay không … mà xác định. Mười hai kinh mạch: thuộc tạng phủ tuần hành phân bố tả hữu đối xứng, mà còn nối tiếp theo thứ tự nhất định, bắt đầu từ thủ thái âm phế kinh, theo thứ tự truyền đến túc quyết âm can kinh, rồi lại truyền vào thủ thái âm phế kinh, tuần hoàn mãi không thôi, biểu thị liên tục như sau: Thủ thái âm phế kinh - Thủ dương minh đại tràng kinh - Túc dương minh vị kinh - Túc thái âm tỳ kinh - Thủ thiếu âm tâm kinh - Thủ thái dương tiểu tràng kinh - Túc thái dương bàng quang kinh - Túc thiếu âm thận kinh - Thủ quyết âm tâm bào kinh - Thủ thiếu dương tam tiêu kinh - Túc thiếu dương đảm kinh - Túc quyết âm can kinh. -Ba kinh Âm ở tay: Phế, Tâm, Tâm bào có hướng đi từ trong ngực ra ngoài ngón tay. -Ba kinh Dương ở tay: Đại trường, Tiểu trường, Tam tiêu có hướng đi từ đầu các ngón tay đi vào ngực, mặt. -Ba kinh Âm ở chân: Tỳ, Thận, Can có hướng đi từ bàn chân lên tận cùng ổ bụng, ngực. -Ba kinh Dương ở chân: Vị, Bàng quang, Đởm có hướng từ mặt xuống, điểm tận cùng là đầu các ngón chân.' Nhâm mạch: Xuất phát từ môi dưới chạy xuống dưới cằm, cổ, ngực, bụng, rốn, xuyên qua bộ phận sinh dục, vừa đến hậu môn. Nhâm mạch có tác dụng tổng quản âm kinh của toàn thân, là Âm kinh chi hải. Đốc mạch: Xuất phát từ hậu môn, theo xương cùng lên thắt lưng, lên tiếp theo đường xương sống, lên gáy, lên đỉnh đầu, qua trước trán, xuống mũi, kết thúc ở môi trên. Đốc mạch có tác dụng tổng quản dương kinh của toàn thân, là Dương kinh chi hải. Kinh lạc chủ trị Mười hai kinh mạch phân bố thuộc vào tạng phủ, âm kinh thuộc tạng là lý (lạc với phủ), dương kinh thuộc phủ là biểu (lạc với tạng). Hai kinh biểu lý thông qua lạc mạch nối tiếp thông đồng lẫn nhau. Do đó 2 kinh biểu lý, ở phương diện sinh lý và bệnh lý đều là liên hệ lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. 29.4.2020 Lu Hà