Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 208

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 4 26, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 30


    “Kê đơn thuốc lắm tiền đủ vị

    Khinh kẻ nghèo thần trí vật vờ

    Coi qua con bệnh xác xơ

    Thiếu tiền bỏ mặc bơ vơ linh hồn


    Sách y thư bảo tồn nòi giống

    Bệnh phong lao kèn trống điêu linh

    Gặp may thày thuốc tận tình

    Kịp thời chữa chạy chúng sinh đền nghì


    Tiền trả trước phong bì biếu xén

    Thuốc giả kê bỏn xẻn ít nhiều

    Lọc lừa chẩn trị lắm chiêu

    Coi thường mạng sống đủ điều sai ngoa


    Bậc lương y kê toa bắt mạch

    Cốt cứu người ân trạch cho không

    Nhớ câu:” Y tích âm công”

    Thuốc châm môi cọp mắt rồng tổ xưa


    Bệnh dịch hạch chẳng chừa ai cả

    Từ vua quan vương bá công thần

    Lan tràn đoạt mạng thứ dân

    Đại phu bốc thuốc xa gần ngóng trông


    Nước trong nguồn mênh mông trời biển

    Lòng mẹ hiền thánh thiện chân như

    Quán âm bồ tát nhân từ

    Lương y trọng trách thiên tư cam lồ


    Biết bao kẻ tham ô hủ bại

    Tàn sát dân thuốc sái điêu ngoa

    U mê tăm tối mù lòa

    Độc quyền thống trị vác loa tuyên truyền


    Y thuật cao thuốc tiên cứu mạng

    Đạo lương y tỏ rạng đến nay

    Ngư tiều may mắn lắm thay

    Nhập Môn chỉ bảo chuyên tay thạo nghề


    Khoa châm cứu mọi bề sáng tỏ

    Khắp toàn thân vạch rõ chân kim

    Tinh tường huyệt đạo nổi chìm

    Gặp người mỡ béo phải tìm cho ra


    Ngư nhà đạo thiết tha cứu độ

    Tiếng của thày đây đó chẳng hư

    Dồi dào phúc đức có dư

    Nghìn năm bia đá công tư vẹn toàn


    Tiều cảm kích hân hoan học thuật

    Kỳ Nhân Sư đáng mặt tôn sư

    Nhập Môn âm chất không từ

    Đạo lành công đức thực hư giãi bày


    Cõi người ta đắng cay thân thế

    Kẻ giàu thương đốt khế nợ lâu

    Người già bạc trắng mái đầu

    Canh gà xao xác dãi dầu tuyết sương


    Lúa nhập kho luân thường phát chẩn

    Cứu đói người lận đận khổ đau

    Nhường cơm sẻ áo cho nhau

    Thí quan thí dược trước sau trọn lòng.“



    Quán âm bồ tát: Quán Thế Âm nghĩa là "Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian" là một vị Bồ-tát hiện thân cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, cả thân nam lẫn thân nữ, Quán Thế Âm là một trong những vị Bồ-tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo Đại thừa, cũng như không chính thức trong Phật giáo Nguyên thủy.


    Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo Phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp liền nhất tâm niệm danh hiệu của bồ tát, ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.



    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 31


    “Tiều than thở xuôi dòng thời cuộc

    Cánh chim di thân thuộc giống nòi

    Phận bèo nhân phẩm trọng coi

    Đại phu bốc thuốc mặn mòi quê hương


    Giúp mai táng thê lương cố quốc

    Vợ chôn chồng bạc phước hầu non

    Bạn bè làng xóm héo hon

    Chia phần tang tóc đàn con đói nghèo


    Biết bao nhiêu gian neo cảnh ngộ

    Án dân oan thống khổ phũ phàng

    Ngẫm câu: ” xuất tội hoạt hàng”

    Ra tay cứu nạn mọi đàng lợi sinh


    Hận ngút trời điêu linh xã hội

    Hôn quân kia tội lỗi gây ra

    Triều đình hủ bại quan nha

    Cường hào ác bá sơn hà nhượng Kim


    Đất U, Yên đắm chìm năm tháng

    Chúa Liêu kia trác táng điêu ngoa

    Dân đen giọt lệ nhạt nhòa

    Tấn vương quỳ mọp thềm hoa tiệc tùng


    Nghề thày thuốc hang cùng ngõ hẻm

    Chữa ngọng đui chẳng kém tiền nhân

    Nhân Sư nổi tiếng xa gần

    Tinh thông y thuật muôn dân cậy nhờ


    Câu” vi thiện” bùn nhơ chẳng ngại

    Khắc bia son quan tái gốc trời

    Đạo con hiếu thuận muôn nơi

    Thảo nhờ cha mẹ tình người vấn vương


    Thầy Tăng Tử yêu thương phụ mẫu

    Học Chu Công dấu chú mọi đằng

    Noi gương Văn Vũ Thành Thang

    Sớm khuya thăm hỏi lầu trang mặn mà“


    Tăng Tử tên thật là Tăng Sâm tự Tử Dư, người Nam Vũ thành, nước Lỗ (nay là huyện Bình Ấp, tỉnh Sơn Đông), là học trò xuất sắc của Khổng Tử. Tăng Sâm nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi. Ông là một người chí hiếu với cha mẹ, người đời sau liệt ông vào một trong "Nhị thập tứ hiếu" nghĩa là hai mươi tư tấm gương hiếu thảo vì truyền thuyết mẹ ông khi cắn ngón tay mà ông động lòng. Tăng Tử kế thừa và phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử, tư tưởng của Tăng Tử đề cao chữ hiếu, tín. Ông thường nói:

    -"Mỗi ngày ta xét thân ta ba việc: Nhận làm thay người ta việc gì, ta có thực tâm làm không? Cùng với bè bạn giao ước điều gì, ta có thất tín không? Thầy dạy ta những gì, ta có nghiên cứu học tập không?



    Ông làm ra sách Đại học gồm 10 thiên và là một trong Tứ thư của Nho gia. Học trò của Tăng Sâm là Khổng Cấp, cùng Nhan Hồi, Mạnh Tử và chính ông là Tứ phối của Nho gia, cũng là đại biểu xuất sắc của phái Nho gia. Khổng Cấp hay Tử Tư làm ra sách Trung Dung trong Tứ thư (cùng với Luận Ngữ, Đại Học, Mạnh Tử).


    Có lần bà mẹ đánh ông, ông khóc nức nở. Ngạc nhiên bà mẹ dừng roi và hỏi: --“Sao từ trước đến nay ta đánh chẳng bao giờ con khóc mà hôm nay con lại khóc?“


    Thưa mẹ:

    - “Mấy lần trước con đau nên biết mẹ còn khỏe nay con không thấy đau nữa nên thương mẹ đã già yếu.“

    Ông thật là người con chí hiếu!



    Chu Công tên thật là Cơ Đán còn gọi là Thúc Đán , Chu Đán hay Chu Văn công. Ông là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ vương Cơ Phát lập ra nhà Chu, giành quyền thống trị từ tay nhà Thương.


    Sau khi Chu Vũ Vương chết, Cơ Đán đã giúp Tân vương là Chu Thành vương xây dựng và phát triển nhà Chu. Hình ảnh của ông tiêu biểu cho tấm lòng trung quân phò chúa, không sinh dị tâm, thường được hậu thế về sau nhắc đến cùng với Y Doãn nhà Thương. Nhà Chu dưới sự nhiếp chính của ông đã vươn lên thành một nước mạnh mẽ, tạo tiền đề cho công cuộc xây dựng nên nền văn minh China rực rỡ về sau. Công lao to lớn của Cơ Đán với sự phát triển của văn minh China (Tàu) khiến người ta gọi ông bằng chức vụ là Chu Công, quên đi cái tên Cơ Đán, khiến cho nhiều người lầm tưởng Chu Công là tên thật của ông.


    “Học họ Ngu gian tà né tránh

    Chuyện trăm nhà hiển hách biết bao

    Tiếng thơm công đức dồi dào

    Con lành cháu thảo tự hào tổ tông


    Hai mươi bốn thảo trồng gieo cấy

    Lấy âm công nhờ cậy gốc nho

    Sách tra Vĩnh loại nhiều pho

    Thể nhân vị lục học trò anh minh


    Ngư hỏi việc bất bình chế độ

    Bầy quan tham quốc khố chia nhau

    Giả vờ từ thiện làm màu

    Cúng tiên thờ Phật cửa sau lạy tiền


    Xây chùa to đảo điên miếu mạo

    Khói nhang đèn lếu láo ê a

    Làm chay hát bội thí ra

    Oan gia trái chủ vịt gà đầu heo


    Nhập Môn cười chó mèo xương xẩu

    Bầy xướng ca cánh hẩu dễ hư

    So câu: “ tích thiện hữu dư”

    Cho vay một vốn lợi từ mười phân.“


    Họ Ngu là một triều đại bán sơ khai của người Tàu trong thời kỳ Thiện nhượng, sau nhà Đường và trước nhà Hạ

    Hữu Ngu: tên một quốc gia bộ lạc từng tồn tại suốt từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế cho đến cuối đời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc

    Nước Ngu: tên một nước chư hầu nhà Chu, Chu Vũ Vương phân phong cho Cơ Trọng (hậu duệ Ngô Thái Bá), đời Xuân Thu bị Tấn Hiến Công tiêu diệt cùng điển tích "mượn đường phạt Quắc" nổi tiếng.


    26.4.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share