Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 25 “Phải nhẫn nại ươm tằm gieo hạt Đừng chủ quan con hát mẹ khen Hạ công chăm chỉ luyện rèn Mưa lâu thấm đất đua chen vội gì Kinh tố vấn thầm thì mây gió Chẳng sờn lòng chăng chớ trăng sao Có ngày y thuật lên cao Ngư tiều đứng dậy nghẹn ngào chắp tay Lời dạy bảo thẳng ngay chính trực Cánh cửa trường thao thức ân cần Khai thông trí tuệ tinh thần Nhãn quan rộng mở canh tân nhân loài Từ đáy giếng trần ai sáng tỏ Ếch nhảy lên rộng mở chân trời Bệnh tình thẩu triệt tới nơi Cứu nhân độ thế đạo đời tiên phong Đừng ẩn dật long đong bờ bụi Ngày tháng dài sầu tủi vì đâu Bấy lâu cam chịu cơ cầu Khinh tài trọng nghĩa theo câu ngũ thường Dẫn càng tỏ khiêm nhường bè bạn Học theo ta giới hạn còn nhiều Tay nghề chẳng đáng bao nhiêu Cỏ cây vò võ bóng chiều hoàn hôn Trí mênh mông biển cồn sóng giật Vượt đại dương y thuật nhập môn Gần xa thiên hạ có đồn Đạo cao muôn trương linh hồn sáng soi Bậc chân nhân xét coi kinh sử Tài văn chương sĩ tử thông thiên Phun châu nhả ngọc thánh hiền Sân Trình cửa Khổng xứng tên Đan Kỳ Tài tám đấu lâm y chen chúc Đầy năm xe thảo dược luận bàn Cao nhân hội đủ dân gian Tinh thông y thuật muôn vàn hân hoan Sinh bất phùng thần nan nhân thế Phần chuyên môn đồ đệ theo nhau Giao lưu chia sẻ trước sau Phải nhường mấy bước đứng đầu y sinh Ngư tiều càng tỏ tình ái mộ Nói thật ra người đó vốn quen Cơm niêu nước lọ sách đèn Lưng đeo ống quyển bao phen chõng lều Cơn gió chướng tiêu điều chiếc lá Cội nguồn xưa cuội đá sắt son Bao năm cũng chẳng sói mòn Ban xưa tung tích nước non xa vời Đường quan lộ tả tơi bức bách Sóng đại dương thuyền rách vùi chôn Động lòng trời đất sinh tồn Danh y chẳng thẹn suy tôn đạo đời.“ Mục đích của tôi là bình giảng thơ mình sáng tác ra được nghệ sĩ Trần Thu Hà diễn ngâm, tôi không chú trọng vào bình thơ tự khen chê thơ mình hay dở, tuyệt tác ra sao? Tôi muốn giúp các bạn khi nghe thơ hiểu những câu những điển tích lạ, hay những chữ khó hiểu nhất. Ví dụ đoạn thơ này có cụm từ:“ Kinh Tố Vấn“ Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn là bộ sách y học cổ truyền lâu đời của phương Đông và là tài sản riêng của y học cổ truyền Trung Hoa. Bộ sách cấu tạo theo thể thức hỏi và đáp trong cách chẩn trị kinh mạch. Những nhà y học cổ truyền thâm hậu xưa nay như Hoa Đà, Biển Thước, Y Doãn của Trung Hoa cổ, như Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh của nước ta, đều coi bộ Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn là cuốn sách gối đầu nằm trong việc nghiên cứu, chuẩn trị, bổ, tả, liệu dược các bệnh nhân và truyền thụ cho các y sinh. Cuốn sách Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn là một trong những bộ cổ thư có giá trị nhất của nền đông y cổ như Linh Khu, Tố Vấn, Nạn Kinh, Mạch Quyết, Kim Quĩ, Thương Hàn... mong cung cấp cho các lương y Đông Dược và các nhà nghiên cứu tài liệu tham khảo tìm biết nền y học cổ phương Đông. Y Đức Hai Họ Mộng Bào cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 26 “Theo Đạo Dẫn tới nơi bạn cũ Đường Nhập Môn cư ngụ nhiều năm Tiếng thơm bát ngát trăng rằm Rừng thơ thảo dược ươm tằm nhả tơ Y thuật cao giấc mơ bao kẻ Quản ngại chi ngày lẻ tháng dư Gần xa nô nức nhân từ Sang hèn chẳng kể thiên tư tuyệt vời Bước vào cửa nụ cười đôn hậu Bậc chân nhân trần cấu dám bì Còn ai nam tử tu mi Cao nho đạo hạnh nhâm nhi chén trà Đã bao lâu sơn hà nhung nhớ Gặp lại nhau nào nỡ dửng dưng Hân hoan tay bắt mặt mừng Vườn xuân chim hót tưng bừng nở hoa Kẻ phong trần nhạt nhòa nước mắt Người non mây y thuật tinh tường Xôn xao đệ tử học đường Cao thâm đạo hạnh thập phương nương nhờ Kể từ lúc sa cơ lỡ vận Hội mây rồng lận đận quan trường Thanh khâm món nợ tha phương Giang hồ lưu lạc chán chường thị phi Đất U Yên thê nhi tao ngộ Khói tro tàn thống khổ tang thương Thiên tai dịch hạch thê lương Đồng hoang cỏ dại cương thường đảo điên Lũ cường hào bạc tiền trên hết Bầy tham quan hủy diệt môi trường Mở toang cửa ải biên cương Khiết Đan xâm lấn Tấn Vương ươn hèn Chẳng chịu nhục bon chen luồn cúi Nước non nhà buồn tủi xót xa Bạn xưa theo học trường ta Bùn nào nhơ bẩn sen nhà đầm quê Thắp nén hương nguyện thề sư phụ Chắp hai tay ngư phủ tiều phu Tiếng thơm để lại ngàn thu Vai mang túi thuốc ngao du cứu người Đường Nhập Môn mấy lời căn dặn Đọc sách y khí vận nhiều tòa Trời đông gặp gió tây qua Hai nơi ấm lạnh bất hòa vần xoay Thời tiết cũng quắt quay tráo trở Hai ngươi đừng thấy đó bực mình Kê đơn bốc thuốc tận tình Cầm tay bắt mạch cứu tinh nhân quần Câu vạn bệnh hồi xuân nên nhớ Đợi Đông quân tỏ rõ chúng sinh Chủ trương hai chữ khô vinh Ý trời đã định thánh minh giao hòa“ Khiết Đan hay Khất Đan âm Hán-Việt tên gọi của một dân tộc du mục Khitan (tiếng Ba Tư) từng tồn tại ở Trung Á và Bắc Á. Dân tộc này từng phát triển thành tổ chức quốc gia Liêu quốc, tồn tại và kiểm soát phía bắc China. Sau khi bị người Nữ Chân đánh bại, họ chuyển sang phía tây và giữ được tổ chức nhà nước, được sử Trung Quốc gọi là Tây Liêu, các tài liệu phương Tây gọi là Hãn quốc Kara Khitai. Vương quốc này tồn tại cho đến khi bị đế quốc Mông Cổ tiêu diệt. Dân tộc Khiết Đan bắt nguồn từ một nhánh du mục Đông Hồ hoặc Hung Nô. Sách Ngụy thư lần đầu tiên ghi nhận, vào thời Bắc Ngụy, người Khiết Đan là một dân tộc thượng võ, dũng mãnh, phát triển mạnh lên và di chuyển địa bàn sinh sống này dọc theo vùng thượng lưu sông Liêu. Nhà Liêu hay triều Liêu còn gọi là nước Khiết Đan là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử China, vận nước kéo dài dài 331 năm, đối kháng kéo dài với triều Tống ở phía nam. Nhà Tấn là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã Viêm thành lập, sau thời kỳ Tam Quốc với việc Tấn đánh chiếm Đông Ngô. Có hai giai đoạn lịch sử của nhà Tấn. Nhà Tây Tấn là sự kế tục của Tào Ngụy sau khi Tư Mã Viêm chiếm quyền lực, và có thủ đô tại Lạc Dương hoặc Trường An. Tây Tấn thống nhất nước T àu , nhưng sau đó bị rơi vào một cuộc nội chiến và cuộc xâm lược của Ngũ Hồ. Miền Bắc bị xâm chiếm, cát cứ và bị chia tách thành Ngũ Hồ thập lục quốc. Các quốc gia nhỏ này đánh lẫn nhau và với nhà Tây Tấn, chuyển sang giai đoạn thứ hai của lịch sử triều đại, nhà Đông Tấn khi Tư Mã Duệ chuyển kinh đô về Kiến Khang (Nam Kinh ngày nay). Cuối cùng Đông Tấn bị nhà Lưu Tống tiêu diệt năm 420. Nhà Tây Tấn bắt đầu hình thành quyền lực từ Tư Mã Ý, đại thần nhà Ngụy thời Tam Quốc. Sau khi Ngụy Minh đế Tào Duệ qua đời, vua nhỏ Tào Phương không có thực quyền, cha con Tư Mã Ý trở thành quyền thần. Tư Mã Ý chết, hai con Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu thay nhau nắm quyền. Ngay năm sau, Tư Mã Sư phế Vua Ngụy Tào Phương, lập Tào Mao. Sư qua đời, Tư Mã Chiêu một mình nắm quyền. Tào Mao muốn trừ khử Chiêu, bị Chiêu ra tay giết và lập Tào Hoán lên thay, tức Ngụy Nguyên đế. Sẵn có tiềm lực cả về kinh tế, dân số, về mặt quân sự, họ Tư Mã nắm quyền nước Ngụy là mạnh nhất trong số ba nước. Nước Thục và Ngô có dân cư thưa thớt hơn và ít của cải hơn, do đó dần dần bị nước Ngụy lấn át. Bản đồ Trung Quốc thời Tây Tấn Sau nhiều năm vừa trấn áp sự chống đối của những người trung thành với nhà Ngụy để củng cố quyền lực, vừa chống trả thành công những cuộc xâm lấn của Ngô và Thục, họ Tư Mã quyết định đánh Thục khi nước này đã suy yếu và nội bộ mất đoàn kết. Ngụy đánh Thục và nhanh chóng tiêu diệt chiếm Thục , vua Thục là Lưu Thiện đầu hàng. Khi Tư Mã Chiêu qua đời. Con cả Chiêu là Tư Mã Viêm lên thay. Tào Hoán thiện nhượng cho Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế lập ra nhà Tấn, tức là Tấn Vũ đế. Tư Mã Ý được truy tôn làm Tuyên đế, Tư Mã Sư làm Cảnh đế, Tư Mã Chiêu làm Văn .Tấn Vũ đế chinh phục nốt nước Ngô, bắt Vua Ngô là Tôn Hạo. 25.4.2020 Lu Hà