Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 205

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 4 25, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 25


    “Phải nhẫn nại ươm tằm gieo hạt

    Đừng chủ quan con hát mẹ khen

    Hạ công chăm chỉ luyện rèn

    Mưa lâu thấm đất đua chen vội gì


    Kinh tố vấn thầm thì mây gió

    Chẳng sờn lòng chăng chớ trăng sao

    Có ngày y thuật lên cao

    Ngư tiều đứng dậy nghẹn ngào chắp tay


    Lời dạy bảo thẳng ngay chính trực

    Cánh cửa trường thao thức ân cần

    Khai thông trí tuệ tinh thần

    Nhãn quan rộng mở canh tân nhân loài


    Từ đáy giếng trần ai sáng tỏ

    Ếch nhảy lên rộng mở chân trời

    Bệnh tình thẩu triệt tới nơi

    Cứu nhân độ thế đạo đời tiên phong


    Đừng ẩn dật long đong bờ bụi

    Ngày tháng dài sầu tủi vì đâu

    Bấy lâu cam chịu cơ cầu

    Khinh tài trọng nghĩa theo câu ngũ thường


    Dẫn càng tỏ khiêm nhường bè bạn

    Học theo ta giới hạn còn nhiều

    Tay nghề chẳng đáng bao nhiêu

    Cỏ cây vò võ bóng chiều hoàn hôn


    Trí mênh mông biển cồn sóng giật

    Vượt đại dương y thuật nhập môn

    Gần xa thiên hạ có đồn

    Đạo cao muôn trương linh hồn sáng soi


    Bậc chân nhân xét coi kinh sử

    Tài văn chương sĩ tử thông thiên

    Phun châu nhả ngọc thánh hiền

    Sân Trình cửa Khổng xứng tên Đan Kỳ


    Tài tám đấu lâm y chen chúc

    Đầy năm xe thảo dược luận bàn

    Cao nhân hội đủ dân gian

    Tinh thông y thuật muôn vàn hân hoan


    Sinh bất phùng thần nan nhân thế

    Phần chuyên môn đồ đệ theo nhau

    Giao lưu chia sẻ trước sau

    Phải nhường mấy bước đứng đầu y sinh


    Ngư tiều càng tỏ tình ái mộ

    Nói thật ra người đó vốn quen

    Cơm niêu nước lọ sách đèn

    Lưng đeo ống quyển bao phen chõng lều


    Cơn gió chướng tiêu điều chiếc lá

    Cội nguồn xưa cuội đá sắt son

    Bao năm cũng chẳng sói mòn

    Ban xưa tung tích nước non xa vời


    Đường quan lộ tả tơi bức bách

    Sóng đại dương thuyền rách vùi chôn

    Động lòng trời đất sinh tồn

    Danh y chẳng thẹn suy tôn đạo đời.“


    Mục đích của tôi là bình giảng thơ mình sáng tác ra được nghệ sĩ Trần Thu Hà diễn ngâm, tôi không chú trọng vào bình thơ tự khen chê thơ mình hay dở, tuyệt tác ra sao? Tôi muốn giúp các bạn khi nghe thơ hiểu những câu những điển tích lạ, hay những chữ khó hiểu nhất. Ví dụ đoạn thơ này có cụm từ:“ Kinh Tố Vấn“


    Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn là bộ sách y học cổ truyền lâu đời của phương Đông và là tài sản riêng của y học cổ truyền Trung Hoa. Bộ sách cấu tạo theo thể thức hỏi và đáp trong cách chẩn trị kinh mạch.

    Những nhà y học cổ truyền thâm hậu xưa nay như Hoa Đà, Biển Thước, Y Doãn của Trung Hoa cổ, như Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh của nước ta, đều coi bộ Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn là cuốn sách gối đầu nằm trong việc nghiên cứu, chuẩn trị, bổ, tả, liệu dược các bệnh nhân và truyền thụ cho các y sinh.

    Cuốn sách Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn là một trong những bộ cổ thư có giá trị nhất của nền đông y cổ như Linh Khu, Tố Vấn, Nạn Kinh, Mạch Quyết, Kim Quĩ, Thương Hàn... mong cung cấp cho các lương y Đông Dược và các nhà nghiên cứu tài liệu tham khảo tìm biết nền y học cổ phương Đông.



    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 26


    “Theo Đạo Dẫn tới nơi bạn cũ

    Đường Nhập Môn cư ngụ nhiều năm

    Tiếng thơm bát ngát trăng rằm

    Rừng thơ thảo dược ươm tằm nhả tơ


    Y thuật cao giấc mơ bao kẻ

    Quản ngại chi ngày lẻ tháng dư

    Gần xa nô nức nhân từ

    Sang hèn chẳng kể thiên tư tuyệt vời


    Bước vào cửa nụ cười đôn hậu

    Bậc chân nhân trần cấu dám bì

    Còn ai nam tử tu mi

    Cao nho đạo hạnh nhâm nhi chén trà


    Đã bao lâu sơn hà nhung nhớ

    Gặp lại nhau nào nỡ dửng dưng

    Hân hoan tay bắt mặt mừng

    Vườn xuân chim hót tưng bừng nở hoa


    Kẻ phong trần nhạt nhòa nước mắt

    Người non mây y thuật tinh tường

    Xôn xao đệ tử học đường

    Cao thâm đạo hạnh thập phương nương nhờ


    Kể từ lúc sa cơ lỡ vận

    Hội mây rồng lận đận quan trường

    Thanh khâm món nợ tha phương

    Giang hồ lưu lạc chán chường thị phi


    Đất U Yên thê nhi tao ngộ

    Khói tro tàn thống khổ tang thương

    Thiên tai dịch hạch thê lương

    Đồng hoang cỏ dại cương thường đảo điên


    Lũ cường hào bạc tiền trên hết

    Bầy tham quan hủy diệt môi trường

    Mở toang cửa ải biên cương

    Khiết Đan xâm lấn Tấn Vương ươn hèn


    Chẳng chịu nhục bon chen luồn cúi

    Nước non nhà buồn tủi xót xa

    Bạn xưa theo học trường ta

    Bùn nào nhơ bẩn sen nhà đầm quê


    Thắp nén hương nguyện thề sư phụ

    Chắp hai tay ngư phủ tiều phu

    Tiếng thơm để lại ngàn thu

    Vai mang túi thuốc ngao du cứu người


    Đường Nhập Môn mấy lời căn dặn

    Đọc sách y khí vận nhiều tòa

    Trời đông gặp gió tây qua

    Hai nơi ấm lạnh bất hòa vần xoay


    Thời tiết cũng quắt quay tráo trở

    Hai ngươi đừng thấy đó bực mình

    Kê đơn bốc thuốc tận tình

    Cầm tay bắt mạch cứu tinh nhân quần


    Câu vạn bệnh hồi xuân nên nhớ

    Đợi Đông quân tỏ rõ chúng sinh

    Chủ trương hai chữ khô vinh

    Ý trời đã định thánh minh giao hòa“


    Khiết Đan hay Khất Đan âm Hán-Việt tên gọi của một dân tộc du mục Khitan (tiếng Ba Tư) từng tồn tại ở Trung Á và Bắc Á. Dân tộc này từng phát triển thành tổ chức quốc gia Liêu quốc, tồn tại và kiểm soát phía bắc China. Sau khi bị người Nữ Chân đánh bại, họ chuyển sang phía tây và giữ được tổ chức nhà nước, được sử Trung Quốc gọi là Tây Liêu, các tài liệu phương Tây gọi là Hãn quốc Kara Khitai. Vương quốc này tồn tại cho đến khi bị đế quốc Mông Cổ tiêu diệt.


    Dân tộc Khiết Đan bắt nguồn từ một nhánh du mục Đông Hồ hoặc Hung Nô. Sách Ngụy thư lần đầu tiên ghi nhận, vào thời Bắc Ngụy, người Khiết Đan là một dân tộc thượng võ, dũng mãnh, phát triển mạnh lên và di chuyển địa bàn sinh sống này dọc theo vùng thượng lưu sông Liêu.



    Nhà Liêu hay triều Liêu còn gọi là nước Khiết Đan là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử China, vận nước kéo dài dài 331 năm, đối kháng kéo dài với triều Tống ở phía nam.


    Nhà Tấn là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã Viêm thành lập, sau thời kỳ Tam Quốc với việc Tấn đánh chiếm Đông Ngô.


    Có hai giai đoạn lịch sử của nhà Tấn. Nhà Tây Tấn là sự kế tục của Tào Ngụy sau khi Tư Mã Viêm chiếm quyền lực, và có thủ đô tại Lạc Dương hoặc Trường An. Tây Tấn thống nhất nước T àu , nhưng sau đó bị rơi vào một cuộc nội chiến và cuộc xâm lược của Ngũ Hồ. Miền Bắc bị xâm chiếm, cát cứ và bị chia tách thành Ngũ Hồ thập lục quốc. Các quốc gia nhỏ này đánh lẫn nhau và với nhà Tây Tấn, chuyển sang giai đoạn thứ hai của lịch sử triều đại, nhà Đông Tấn khi Tư Mã Duệ chuyển kinh đô về Kiến Khang (Nam Kinh ngày nay). Cuối cùng Đông Tấn bị nhà Lưu Tống tiêu diệt năm 420.


    Nhà Tây Tấn bắt đầu hình thành quyền lực từ Tư Mã Ý, đại thần nhà Ngụy thời Tam Quốc. Sau khi Ngụy Minh đế Tào Duệ qua đời, vua nhỏ Tào Phương không có thực quyền, cha con Tư Mã Ý trở thành quyền thần.


    Tư Mã Ý chết, hai con Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu thay nhau nắm quyền. Ngay năm sau, Tư Mã Sư phế Vua Ngụy Tào Phương, lập Tào Mao. Sư qua đời, Tư Mã Chiêu một mình nắm quyền. Tào Mao muốn trừ khử Chiêu, bị Chiêu ra tay giết và lập Tào Hoán lên thay, tức Ngụy Nguyên đế.


    Sẵn có tiềm lực cả về kinh tế, dân số, về mặt quân sự, họ Tư Mã nắm quyền nước Ngụy là mạnh nhất trong số ba nước. Nước Thục và Ngô có dân cư thưa thớt hơn và ít của cải hơn, do đó dần dần bị nước Ngụy lấn át.

    Bản đồ Trung Quốc thời Tây Tấn


    Sau nhiều năm vừa trấn áp sự chống đối của những người trung thành với nhà Ngụy để củng cố quyền lực, vừa chống trả thành công những cuộc xâm lấn của Ngô và Thục, họ Tư Mã quyết định đánh Thục khi nước này đã suy yếu và nội bộ mất đoàn kết.


    Ngụy đánh Thục và nhanh chóng tiêu diệt chiếm Thục , vua Thục là Lưu Thiện đầu hàng.


    Khi Tư Mã Chiêu qua đời. Con cả Chiêu là Tư Mã Viêm lên thay. Tào Hoán thiện nhượng cho Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế lập ra nhà Tấn, tức là Tấn Vũ đế. Tư Mã Ý được truy tôn làm Tuyên đế, Tư Mã Sư làm Cảnh đế, Tư Mã Chiêu làm Văn .Tấn Vũ đế chinh phục nốt nước Ngô, bắt Vua Ngô là Tôn Hạo.


    25.4.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share