Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 204

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 4 24, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 23


    “Xích lại gần xầm xì to nhỏ

    Chủ mạch nào bệnh đó phát ra

    Ngư tiều trong sách nhà ta

    Mạch nào chứng ấy thiết tha giãi bày


    Bệnh phong cùi tới ngày thổ huyết

    Hoạt tắc đờm thân nhiệt thì cao

    Biết ngay người ấy bị lao

    Thương hàn hồng tụ cồn cào rốn tê


    Sắc hao tổn hôn mê hại huyết

    Phục lạnh trì thảm thiết cách quan

    Người già nhức nhối kêu than

    Toàn thân ê ẩm đổ tràn mồ hôi


    Trường khí tốt đoản rồi là bệnh

    Tránh làm sao tế chệch đại suy

    Khí hư nhiều ít cũng tùy

    Động kinh co rật u tỳ ngục sâu


    Sắc nhợt nhạt buồn rầu rên riết

    Bệnh di tinh băng huyết lạ lùng

    Tiều kêu chẩn trị mông lung

    Chín đường thất biểu ngại ngùng nói ra


    Đạo Dẫn nói ấy là bát lý

    Theo mạch kinh sinh ký tử quy

    Sách coi biết rõ tục y

    Có ông Trọng Cảnh thần kỳ khảo biên


    Ngư suy diễn dẫn truyền từ gốc

    Sách đã biên dấu mốc làm gì?

    Dẫn cười sách thuốc thiếu chi

    “Hãn ngưu sung đống“ được ghi tận tường


    Gốc tính từ Cao Dương hiển hách

    Vương Thúc Hòa bắt mạch gọi tên

    Về sau họ Đới nối liền

    Mạch thư soạn thảo mà nên chu toàn


    Đan khê cũng tân toan sau trước

    Hậu học theo thảo dược chiết trung

    Nhiều ông mạch lý tận cùng

    Phương nào thuật ấy trập trùng vô biên


    Hội mây rồng triền miên đeo đuổi

    Ganh đua nhau rắc rối muôn đường

    Để rồi nhầu nát như tương

    Phù, trầm, trì, sác y phương nẻo nào?


    Tứ tông ấy thất thường biến cải

    Coi bộ ba biên ải gió bay

    Trải bao khổ luyện mới hay

    Ngàn năm bốn mạch ta nay thuộc lòng


    Kinh thái âm long đong mạch hội

    Phải tinh tường rắc rối ra sao?

    Thố quan sống chết âm hao

    Dương suy thần sắc mạch nào lâm nguy


    Ba cách ấn cũng tùy thuận nghịch

    Nổi giưã chìm tới đích sác trì

    Ngũ hành hư thực mạch đi

    Rất là phiền phức suy vi bệnh tình“


    Trương Trọng Cảnh còn gọi là Trương Cơ là một thầy thuốc bên China (Tàu) hành nghề vào cuối đời Đông Hán. Ông được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử Đông y vì những đóng góp mang tính hệ thống về cả lý luận và thực nghiệm. Tác phẩm quan trọng nhất của ông, Thương hàn tạp bệnh luận, tuy đã thất lạc trong giai đoạn Tam Quốc nhưng sau đó đã được tổng hợp lại thành hai tập sách Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược, đây là hai trong bốn bộ sách quan trọng nhất của Đông y.


    Tuy là thầy thuốc danh tiếng bậc nhất trong lịch sử nước Tàu, nhưng tiểu sử của Trương Trọng Cảnh lại ít được biết tới. Trong sách Hậu Hán thư cũng không dẫn truyện về ông. Có tài liệu cho rằng ông sinh tại Nam Dương, Hà Nam, sau đó giữ một chức quan ở Trường Sa, Hồ Nam và sống trong khoảng thời gian từ năm 150 tới 219 tức là giai đoạn cuối thời nhà Hán. Cho đến nay người ta vẫn còn tranh cãi về ngày sinh, ngày mất chính xác của Trương Trọng Cảnh.


    Sống và làm việc trong thời tao loạn cuối nhà Hán, Trương Trọng Cảnh đã tập hợp các tài liệu y học cổ như Tố vấn, Cửu quyển, Bát thập nhất nạn, Âm dương đại luận, Đài lư dược lục, Bình mạch biện chứng và kinh nghiệm cá nhân để viết ra tác phẩm y học xuất sắc Thương hàn tạp bệnh luận gồm 16 quyển. Tác phẩm này sau đó đã bị thất lạc trong thời Tam Quốc nhưng được người đời thu thập lại trong hai tập sách có tên Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược. Hai tập sách này cùng với Hoàng Đế nội kinh của Hoàng Đế và Nạn kinh của Biển Thước được coi là bốn bộ sách quan trọng nhất của Đông y (Nội nạn thương kim)


    Những đóng góp mang tính cơ sở của Trương Trọng Cảnh khiến ông được xưng tụng là "Thánh y" của Đông y.



    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 24


    “Nơi cửu hậu rập rình thập biến

    Tạng phủ còn ẩn hiện như ma

    Bệnh này mạch đủ bộ ba

    Khi lên lúc xuống bày ra lắm trò


    Tay phải cứng thăm dò tim mạch

    Lúc nằm ngang đừng tách thiên hòa

    Thất thường nhảy gấp mắt hoa

    Nếu không ứng nghiệm nhạt nhòa mồ hôi


    Hai lần biến bồi hồi tâm dạ

    Không thấy lo cũng lạ mới kỳ

    Dù nam hay nữ như y

    Giờ dần tái hiện thì tùy liệu cho


    Số năm mươi chớ lo lắng sợ

    Thái diễn kia sáng tỏ linh thiêng

    Bốn mùa lấy khí gốc giềng

    Sáu con giáp tiếp trống chiêng làm gì


    Anh với em đền nghì mai trúc

    Để ngàn năm tùng cúc thỏa nguyền

    Trai hùng gặp gái thuyền quyên

    Tu mi nam tử sánh duyên má đào


    Khi xem mạch dạt dào tâm trí

    Then chốt nào giản dị vô cùng

    Chớ nên bấn loạn lung tung

    Nhìn gà hóa cuốc mông lung mịt mờ


    Kinh mạch nào phải sờ tay biết

    Tạng phủ nào nhất thiết tinh tường

    Mạnh suy biến hóa thất thường

    Ung dung thanh thản tìm đường cứu nguy


    Rõ nguồn gốc phải suy xét kỹ

    Chuyên tay nghề tối kỵ chủ quan

    Quản chi vất vả bần hàn

    Lương y từ mẫu thế gian lưu truyền


    Ý sâu sắc mấy thiên sách quý

    Vốn bách gia tận tụy khảo tra

    Còn nhiều y quán viết ra

    Kiêm lời tiểu tự thiết tha biên hoài


    Thủ tự ấy anh tài cổ võ

    Thực hư coi ba bộ tử sinh

    Tuyệt vời rõ mạch kỳ kinh

    Thiên hòa chẳng chịu u minh dốt ngầm


    Tấm biển treo y lâm rành rẽ

    Chữ tam công cặn kẽ nghĩa gì?

    Đạo Dẫn bốn chữ thiên tri

    Vong văn, vấn, thiết rõ ghi ba tầng


    Chữ vọng văn dạ vâng phu tử

    Bậc thượng công thứ tự đứng trên

    Trung công chữ vấn này biên

    Tinh tường y lý xây nền quang vinh


    Còn chữ thiết thì mình gánh chịu

    Bậc hạ công buồn thỉu buồn thiu

    Mong gai xin chớ ỉu xìu

    Thị phi điều tiếng búa dìu lang băm.“


    Tam công dùng để chỉ ba chức quan cao cấp nhất trong triều đình phong kiến tại các nước Á Đông như China và Việt Nam. Chức vị chi tiết từng bộ ba này thay đổi theo từng thời đại mà không cố định.


    Trong Thiên văn, Tam công là tên sao. Tấn thư, Thiên Văn Chí chép rằng: "Ba sao Tiêu Nam trong chòm sao Bắc Ðẩu, sao Khôi đệ nhất, phía Tây ba sao nữa, đều gọi là Tam công. Trên trời, các sao này chủ về dụng đức cải hóa thế gian, hòa hợp chính sự, dung hòa Âm-Dương. Lại nói: Ðông Bắc 3 sao gọi là Tam công, chủ những đại thần ngồi ở Triều đình".


    Tam công có xuất xứ từ nhà Chu, gồm ba chức quan là Thái sư, Thái phó và Thái bảo. Thời Tây Hán, thiết trí Thừa tướng, Thái úy và Ngự sử đại phu, sau lại sửa thành Đại tư đồ, Đại tư mã và Đại tư không. Đến thời Đông Hán, các chức danh này được đổi tên thành Thái úy;Tư đồ; cùng Tư không; được gọi là "Tam tư", vị trí dưới Thái phó, khi ấy xưng gọi Thượng công . Thời Bắc Nguỵ thiết lập Thái sư, Thái phó và Thái bảo, gọi là Tam sư Thượng công .


    Thời nhà Tùy và nhà Đường, các chức Tam công thuộc hàng vinh hàm. Sang thời nhà Tống, Tống Huy Tông đem đổi Tam công là Thái sư, Thái phó cùng Thái bảo (nguyên là Tam sư). Thời nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh, Tam công đã được mặt định thành Thái sư, Thái phó cùng Thái bảo, tiếp tục là một loại vinh hàm tối cao trong hệ thống.


    Lương bổng của Tam công thời Hán là một vạn thạch. Có lẽ là thạch lúa mì, vì thời đó gạo chưa phổ biến ở vùng phía Bắc sông Dương Tử, trung tâm của nhà Hán. Về sau, với sự hình thành của Lục bộ thì Tam công dần trở thành các chức danh danh dự, mang màu sắc là các cố vấn cao cấp của triều đình. Vì tính chất này, quá nửa các triều đại đều chỉ tặng Tam công sau khi vị lão thần qua đời mà thôi. Trong y học Tam Công là ba cấp bậc trình độ chuyên môn. Tạm hiểu là giáo sư, bác sĩ hay y tá.


    24.4.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share