Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 200

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 4 9, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 14

    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp


    “Nhân thuốc ấy bấy chầy một bộ

    Có hai mươi vị đủ chi dùng

    Ở trong thú vật bổ sung

    Chín mươi mốt giống mật cùng da xương


    Phải kể đến gan lòng tim phổi

    Nào ba mươi bốn cội cánh lông

    Bộ trùng ngư thuốc bềnh bồng

    Chín mươi chín loại non sông tuyệt vời


    Thuốc thường kiếm là nơi cầm điểu

    Mễ cốc kia công hiệu cứu đời

    Ba mươi tám giống là nơi

    Gieo trồng quả phẩm muôn người trọng coi


    Bốn mươi giống thảnh thơi bách thảo

    Sáu mươi hai hương hảo khỏi lo

    Cộng mười hai bộ trời cho

    Một ngàn bốn vị trong lò hóa công


    Xưa có họ Thần Nông cao nhất

    Đã thay trời trị vật yêu dân

    Trải qua độc vị thế gian

    Một ngày hơn bảy mươi lần trúng thương


    Biết bao vật âm dương nếm thử

    Chẳng đắn đo do dự cứu người

    Dò tìm cây cỏ khắp nơi

    Soạn ra sáu tính khác hơi năm mùi


    Đã thành hình nằm vùi dưới đất

    Đủ đắng cay ngọt lạt mặn chua

    Sát sao cách thức theo mùa

    Xăm soi ngũ vị kết tua luận bàn


    Nhóm vị cay dễ tan trong nước

    Chua hay thâu mặn được nhuễn liền

    Đắng thường vội vã nóng lên

    Ngọt càng chậm lại nhạt nên tận tường


    Cay ngọt lạt thuộc dương phải biết

    Mặn đắng chua nhất thiết là âm

    Có khi dương ở trong âm

    Âm trong dương đó dễ nhầm lắm thay


    Máy mầu nhiệm cầm tay dày mỏng

    Hơi đục trong thất vọng chẳng đồng

    Giữ cho sáu tính tương thông

    Gọi là thăng giáng ôn lương đến cùng


    Đừng lạc lối mê cung tả thực

    Bổ hay hư tỉnh thức trên giường

    Cho hay tính thuốc nhiều đường

    Xưa nay năm vị vẫn thường chia ra


    Ngăn tà dâm xâu xa sáu cửa

    Sáu đạo binh ngang ngửa ầm ầm

    Có mùi cay mát giữ cầm

    Mỏi mòn hơi gió âm thầm nửa phong


    Mùi mặn lạnh đề phòng cửa nhiệt

    Lửa hừng lên phải biết hậu môn

    Đất nơi cửa thấp ướt dồn

    Ngửi mùi cay nóng bồn chồn giác quan.“


    Thần Nông còn được gọi là Thần Nông thị, Liên Sơn thị, Tắc thần, thường được biết với tên gọi Viêm Đế, là một trong Tam Hoàng. Khác với Phục Hy và Nữ Oa, ông là vị Tam Hoàng duy nhất có hình thù là con người toàn vẹn, không nửa người nửa thú như 2 vị kia. Thần Nông cũng là người có đầu giống đầu bò, sừng nhọn, trán đồng, đầu sắt, đuôi bọ cạp, chân rết . Theo Tư Mã Trinh thì Thần Nông làm vua 140 năm, khi mất táng tại Trường Sa (nay thuộc tỉnh Hồ Nam). Kinh đô ban đầu đặt tại đất Trần, sau dời tới Khúc Phụ. Hậu duệ của ông truyền được 8 đời kéo dài 520 năm cho đến khi Hiên Viên Hoàng Đế nổi lên . Thần Nông có 1 người con gái tên là Tinh Vệ.


    Theo truyền thuyết, Thần Nông sống cách đây khoảng 5.000 năm và là người đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cũng như phát triển nghề làm thuốc trị bệnh, cho nên trong dân gian có câu Thần Nông thường bách thảo, giáo nhân y liệu dữ nông canh. Thần Nông nếm trăm cây thuốc, dạy dân trồng ngũ cốc). Vì thế, ông còn được xưng là Dược vương, Ngũ Cốc vương, Ngũ Cốc Tiên Đế hay Thần Nông đại đế.



    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 15


    “Nếu cảm thấy khô khan cửa táo

    Đường hàn môn lạo xạo băng sương

    Ưá trào vị đắng táo hương

    Thoảng bay độc khí thất thường ngoại khoa


    Mùi thuốc ghẻ mấy toa chăng chớ

    Năm vị này úy ố trái nhau

    Có mười tám vị trước sau

    Còn mười chín vị sắc màu nhuộm pha


    Sách sử ghi lời ca ố úy

    Mười tám bài hệ lụy phản nhau

    Nào là bán hạ qua lâu

    Ai hay bối mẫu chân cầu tử sinh


    Này bạch cập rập rình bạch liễm

    Cả hai đều xâm chiếm ô đầu

    Nguyên hoa hải tảo từ đâu

    Ngán sao đại kích từng xâu đọa đày


    Vị cam thảo càng day dứt thuốc

    Các lọai sâm bạch thược trái ngang

    Lê lô quả thật phũ phàng

    Lương tâm thày thuốc bẽ bàng ngàn thu


    Hồn ma khóc âm u gió thổi

    Lư hoàng kia nóng hổi lửa phun

    Phác tiêu cửa ải mây đùn

    Thủy ngân chớ để hạp hùn tỳ sương


    Mật đà tăng bất lương lang độc

    Ba đậu kia thảm khốc xiết bao

    Khiên ngưu chăng hợp kết giao

    Đinh hương chớ để lẫn vào uất kim


    Kinh tam lang nổi chìm khó hợp

    Với nha tiêu từng hớp thuốc thang

    Nực cười tê giác lăng xăng

    Xuyên ô trộn lẫn nhì nhằng thảo ô


    Ngũ linh chi từng tô đáng sợ

    Với nhân sâm họa đó ích gì

    Điều hòa quan quế nhâm nhi

    Rất hay khí lạnh thầm thì yến anh


    Gặp thạch chi hóa thành công cốc

    Phải dày công bốc thuốc chuyên tay

    Học hành chăm chỉ tháng ngày

    Tinh thông thuận nghịch càng hay mọi đàng


    Ngư cho rằng từng thang thuốc quý

    Phải đúng liều chẳng lụy đến thày

    Vài toa bệnh đã dừng ngay

    Dẫn cười đạo hạnh xưa nay tỏ tường


    Câu đối chứng lập phương cần nhớ

    Quân thần kia tá sứ đo lường

    Vua tôi hòa hợp một đường

    Đừng gây tạo phản bất lương hại người


    Nay ta mở các ngươi mấy cửa

    Sẵn bảy phương đại tiểu ngẫu cơ

    Phức cùng hoãn cấp sờ sờ

    Khá trông mười tễ càng dư tuần hoàn


    Tễ là bổ chu toàn thành thạo

    Hoạt trọng khinh sáp táo thấp thôi

    Bảy phương mười tễ biết rồi

    Tán thang minh bạch trau dồi kỷ cương.



    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 16


    “Phải thấu hiểu tận tường gốc rễ

    Các mẫu hình vị tễ từ đâu

    Cân đo bào chế sắc mầu

    Chớ nên nhầm lẫn dao cầu khéo tay


    Dùng muối mặn gừng cay mật ngọt

    Đủ dấm chua rượu rót chế liền

    Nấu hầm than nướng lửa chiên

    Ngấm vào kinh lạc đáng tiền chi ra


    Mật ong thấm ruột rà phế vị

    Muối thì vào thận trị dấm can

    Nước gừng ngấm tới tỳ quan

    Rượu hoà nước tiểu ngập tràn tâm kinh


    Muốn công hiệu phân minh ngũ vị

    Thuốc đã dùng thần trí phải tinh

    Đun sôi nấu chín do mình

    Giữ gìn thể trạng bệnh tình chóng quên


    Ăn uống sạch cũng nên nhất thiết

    Chất mặn nhiều khí huyết sẽ tăng

    Cay thì hơi xịt lăng xăng

    Hại xương chát đắng mọi đằng kiêng khem


    Kìa dưa chua thòm thèm lưỡi miệng

    Ngọt coi chừng từng miếng thịt thăn

    Mọi điều cặn kẽ khuyên răn

    Cổ kim rành rẽ can ngăn đã nhiều


    Lắm của ngọt bấy nhiêu bệnh tật

    Thuốc uống vào thành thật ăn dè

    Kiểm tra nhiều món khắt khe

    Tham ăn tục uống chỉ e hại mình


    Nếu trong thuốc truật linh giả dụ

    Tỏi dấm mùi dễ sợ không ưa

    Uống trà phải tránh quả dưa

    Hoàng liên phảng phất quyết chừa bò heo


    Cát cánh ấy chẳng theo hành sống

    Địa hoàng xa mấy vống cải kia

    Thịt trâu, Ngưu tất chia lìa

    Xương hầm măng củ bên rìa chó dê


    Thói quen hay bộn bề khắc thuốc

    thịt cá dầu mỡ buộc bỏ ngay

    Trái cây rau sống ai hay

    Kiêng khem thì khá tháng ngày bền lâu


    Ta xin nói một câu huân tập

    Bệnh tất tòng khẩu nhập giữ mình

    Bốc từng thang thuốc cho tinh

    Thuận theo thủy hỏa sinh linh tận tường


    Đẩy dương số tiên phương mới thật

    Tâm pháp thành thực chất xưa nay

    Cao minh y thuật chuyên tay

    Tiện bề vấn đáp sách hay để đời


    Thày đã dạy bao lời ưu ái

    Bậc cao nhân chẳng trái lương tâm

    Mong trò y thuật tới tầm

    Cứu nhân độ thế tình thâm giống nòi.“


    Vì hoàn cảnh vùng đất mênh mông U, Yên bị chia cắt và đặt dưới sự đô hộ của Triều Liêu nên Mộng Thê Triền và Bảo Tử Phược đi làm nghề đốn củi, đánh cá để mưu sinh nuôi gia đình. Chẳng may cả hai người vợ con bị ốm đau nhiều và chết chóc, nên cả hai người đều muốn đi tìm học nghề thuốc. Họ đều có ý định đi tìm Kỳ Nhân Sư là một thầy thuốc rất giỏi và cũng là người đất U, Yên đi ẩn cư. Mộng Thê Triền và Bảo Tử Phược là hai người bạn cũ, bị hoàn cảnh loạn ly mà xa cách nhau từ lâu, gặp lại nhau trên đường đi tìm Nhân Sư. Dọc đường họ gặp thêm hai bạn cũ có cùng mục đích là Châu Đạo Dẫn và Đường Nhập Môn. Cả mấy người cùng dắt nhau đi tìm Nhân Sư. Đạo Dẫn và Nhập Môn là những người đã biết chỗ ở của Nhân Sư. Vì họ đã đều biết thuốc, nên trên đường đi Ngư, Tiều hỏi chuyện về y học rất nhiều. Đạo Dẫn và Nhập Môn lần lượt trả lời những câu hỏi của Ngư, Tiều và giải thích một cách rõ ràng nhiều điểm về lý luận y học cơ bản, kèm theo ca, phú mà phần chính lấy ở y học nhập môn ra.


    Giữa đường, Đạo Dẫn tìm đường đi luyện linh đan học phép tu tiên, còn Ngư, Tiều thì theo Đường Nhập Môn tiếp tục đi đến Đan Kỳ để tìm Kỳ Nhân Sư, Nhưng khi đến nơi thì Nhân Sư đang bị bệnh và lánh ở Thiên Thai, song họ được gặp lại Đạo Dẫn ở đây. Hỏi ra mới biết là Nhân Sư không phải là bị bệnh thật mà là vì vua Liêu nghe tiếng cho sứ đến mời Nhân Sư vào làm Ngự Y, nhưng Nhân Sư không muốn làm tôi kẻ thù nên đã xông hai mắt cho mù, rồi lánh về ở Thiên Thai và lưu học trò là Đạo Dẫn ở lại Đạo Kỳ để từ chối với sứ Tây Liêu.


    Tập thơ truyện của tôi lấy tên là “Y Đức Hai Họ Mộng Bào“ cảm xúc theo tập truyện thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu có tên l à “Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp“. Cụ Nguyễn Đình Chiểu sinh trưởng giữa lúc thực dân Pháp đang xâm lược Việt Nam. Chúng đánh hải cảng Đà Nẵng, Gia Định. Hồi ấy ông đang dạy học ở Gia Định, phải chạy về quê vợ ở Cần Giuộc (gần Chợ Lớn) lánh nạn và tiếp tục dạy học ở đó. Những năm đó Cần Giuộc cũng bị quân Pháp chiếm, ông lại phải chạy về Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, Vua Tự Đức cắt ba tỉnh miền Đông nhượng cho Pháp. Tuy vậy Pháp vẫn tiếp tục mưu đồ xâm lược. Sau đó chúng chiếm luôn cả ba tỉnh còn lại của Lục Tỉnh thuộc Nam Kỳ. Vậy là cả Lục Tỉnh Nam Kỳ bị Pháp đô hộ.


    Cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng như hầu hết đồng bào miền Nam lúc bấy giờ vô cùng căm phẫn. Ông rất đau xót về tình cảnh đất nước bị chia cắt, nhân dân khổ cực tang thương. Bị giặc tàn sát, đàn áp, bức hiếp, phần bị đói rét, bệnh tật, chết chóc… Ông lại bị mù, không thể cầm vũ khí giết giặc, nên dùng bút thay gươm, viết văn làm thơ để nói lên lòng yêu nước thương dân và nỗi oán hận của mình đối với quân cướp nước và triều đình nhà Nguyễn nhu nhược.


    “Ngư Tiều Vấn Đáp Y Thuật” ra đời vào khoảng thời gian sau khi Nam Kỳ đã bị Pháp xâm chiếm. Trong tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã mượn bối cảnh của đất nước U, Yên ở bên Tàu đời nhà Tấn bị ngoại bang xâm chiếm, dựng lên câu chuyện mấy người dân xứ này đi lánh nạn và cũng tìm thầy học thuốc, để dưới hình thức nói chuyện về y học, thổ lộ lòng căm phẫn của mình đối với thời cuộc, nhằm cổ súy tinh thần đấu tranh chống xâm lăng của đồng bào, đồng thời cũng để nói lên sự lưu tâm của mình đối với tính mạng của người bệnh trước tình cảnh các băng nhóm lang băm vụ lợi, nhằm vực đỡ tình trạng y học thời gian đó.


    Phần thơ này tôi thấy không cần thiết bình giảng nhiều về các loại dược thảo đơn thuốc v.v… Khán giả phải tự tra từ điển Hán Việt để hiểu các câu chữ trong thơ. Thời gian của tôi là để tiếp tục sáng tác tiếp cho xong bộ truyện thơ dài này.


    9.4.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share