Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 198

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 4 8, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 8

    *Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp


    “Ép bọng đái thấy dơ nước tiểu

    Kinh thái dương tiết niệu hoả hơi

    Biết ngay phủ ấy tả tơi

    Từ trên xuống giữa dưới thời tam tiêu


    Do ăn uống nạp nhiều tạp chất

    Để toàn thân bần bật rã rời

    Hơi thừa bủa khắp ba nơi

    Đứng ngồi không vững máu tươi ứa trào


    Phải kê đúng thuốc sao đặc hiệu

    Ngấm vào trong phải hiểu từng toa

    Mười hai kinh lạc điều hòa

    Giúp cho tạng phủ giao thoa thế nào?


    Ngư Tiều hỏi tâm bào kinh thủ

    Còn liệu chừng tam phủ âm dương

    Làm sao y thuật hiền lương

    Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư?


    Đạo Dẫn bảo Nhân Sư chứng thực

    Bến ngũ hành ý thức nhân sinh

    Mộc kim thủy hỏa thổ trình

    Hiểu cho cặn kẽ muôn hình vần xoay


    Mộc sinh hỏa ai hay thành thổ

    Thổ sinh kim hội ngộ thủy ra

    Thủy về mộc lại thiết tha

    Đất trời sinh sản bao la vô cùng


    Mộc khắc thổ mịt mùng thổ thủy

    Thủy chẳng ưa hỏa lụy chân kim

    Kim xa mộc lại đi tìm

    Mộc đâu giá lạnh im lìm chúng sinh


    Tiếng quạ kêu hôi rình xác chết

    Việc dữ lành thống thiết muôn loài

    Tử sinh trong cõi trần ai

    Cỏ cây muông thú u hoài ngàn năm


    Máy tạo hóa trăng rằm sáng tỏ

    Khéo khen thay tay thợ ngũ hành

    Phải coi sách ấy cho rành

    Dịch kinh hà lạc thuần thành mới thôi


    Aỉ Thiên Can mấy hồi Ngũ Vận

    Phải tinh tường chủ vận là chi?

    Thiên can mười chữ có ghi

    Anh em thứ lớp nhất nhì chẳng sai


    Sinh ra được một trai một gái

    Năm phương càng chẳng ngại âm dương

    Giáp cùng ất mộc đông phương

    Bính thì đinh hỏa tỏ tường nam phương


    Mậu kỷ thổ trung ương thấu tỏ

    Canh tân kim vẫn ở tây phương

    Thuận theo tạo vật vô thường

    Cùng nhâm quý thủy bắc phương ý trời.“





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 9


    “Năm ngôi chủ chẳng dời thời vận

    Suy ngẫm ra thân phận con người

    Trần gian dở khóc dở cười

    Nghìn năm vương vấn như lời thơ xưa


    Tiết Đại hàn đến chưa Mộc vận

    Trước ba ngày vận Hỏa hận thanh minh

    Ba ngày Mang chủng thành hình

    Ai hay Thổ vận rập rình theo sau


    Sáu ngày tới Lập thu Kim vận

    Chín ngày đầu lận đận Lập đông

    Khen thay tạo vật hóa công

    Muôn hình vạn trạng dõi trông mọi miền


    Cứ năm nhà túc duyên kỳ lạ

    Vợ hợp chồng vàng đá trước sau

    Giáp chàng nàng Kỷ cưới nhau

    Hóa ra vận Thổ một màu sắt son


    Ất Canh lại héo hon lòng dạ

    Mộc cây trầm sỏi đá Đinh Nhâm

    Bính Tân xem cũng chẳng lầm

    Thủy tràn lai láng lâm dâm sông hồ


    Vầng quang hỏa anh Mồ Chị Quý

    Bướm hoa sầu bi lụy khi mô

    Bởi năm hóa tạo ô hô

    Đôi bờ ân ái nhấp nhô sóng vờn


    Giàu tiền bạc chập chờn Kim mệnh

    Mộc thành rừng toan tính sau đây

    Thủy tuôn cuồn cuộn ngập đầy

    Hỏa thành ngọn lửa bấy chầy phương nam


    Suy sét ra từng năm vận khách

    Tính theo niên đành hạch chi ai

    Gỉa như Giáp Kỷ trúc mai

    Hóa ra hành Thổ khứ lai kể gì?


    Thổ sinh Kim vận nhi là vậy

    Kim sinh thành thủy ấy vận ba

    Thủy sinh mộc nảy gần xa

    Rừng cây chen chúc đó là vận tư


    Mộc sinh hỏa luận từ kinh dịch

    Bảy mươi hai ngày tính năm nay

    Lại dư năm khắc nào hay

    Lấy năm Giáp Kỷ lời thaỳ nói ra



    Bao năm nữa đều là như thế

    Phải coi chừng nặng nhẹ vân vi

    Đổi thay thay tinh tú các vì

    Ai hay xoay chuyển mấy khi ngũ hành


    Giáp bính mậu nhâm canh thái quá

    Bất cập đành nhân quả dương phân

    Năm đinh ất kỷ quý tân

    Còn bao trắc trở về phần âm can


    Phải biết được đaị hàn trước tiết

    Mười ba ngày khẩn thiết thái tiên

    Rồi sau tính đến hậu thiên

    Hai mươi sáu chẵn hậu tiên giao bàn“





    Y Đức Hai Họ Mộng Bào

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 10


    “Đất có hậu thế gian trời định

    Cậy khôn ngoan mưu tính cái gì?

    Ngư tiều đến ải Địa Chi

    Thấy non lục khí đường đi ngoằn ngoèo


    Rừng âm u hắt heo chủ khí

    Cỏ đá chen vị trí đổi thay

    Mỉm cười Đạo Dẫn cho hay

    Có mười hai chữ vần xoay bốn mùa


    Dần Mão Mộc sim mua nở rộ

    Tiếng ve sầu tu hú gọi hè

    Hương thu thân dậu kim khoe

    Tiết đông hợi tý nước be dũng tuyền


    Thìn tuất sửu mùi liên đất lạnh

    Tứ quý càng hiển hách từng mùa

    Luân phiên sáu đợt ấn bùa

    Líu lo chim chóc gió lùa nắng xuân


    Lửa phừng phừng tới tuần quân hỏa

    Tiết xuân phân chuyển hóa hai ba

    Viêm oai hừng hực sơn hà

    Thái âm mưa móc cửa nhà nhá nhem


    Dương minh tới lom lem khô héo

    Thái dương hàn khí kéo rèm bưng

    Hân hoan uống chén rượu mừng

    Trai thanh gái lịch tưng bừng kết hôn


    Sáu hơi chủ thần hồn chẳng dứt

    Cứ từng năm giành dựt trời an

    Luân phiên từ tiết đại hàn

    Chính trong ngày ấy giao ban khí đầu


    Hơi bình chẳng trước sau tuần tự

    Sách Tàu ghi hai chữ tề thiên

    Bảo rằng “binh khí chi niên”

    Để cho chủ tử chính chuyên canh phòng


    Từ sáu cặp thong dong xung đối

    Xây vòng chia chẳng vội định ngôi

    Ô hay khách khí xa xôi

    Mong cho tý ngọ bồi hồi thiếu âm


    Xây một tòa thái âm quân hỏa

    Sửu đối mùi đe dọa thiếu âm

    Thái dương hàn thủy xuống tầm

    Đùng đùng sấm chớp mưa dầm liên miên


    Dần đối thân hoàng thiên tướng hỏa

    Khí thiếu dương phong tỏa giữ trời

    Quyết âm xuống đất muôn nơi

    Mộc truyền lan khắp xanh tươi một màu


    Năm mão dậu nhạt nhòa tý ngọ

    Ngược lại như chăng chớ tuất thìn

    Đắn đo tỵ hợi mỏi nhìn

    Đất trời u ám kìn kìn mây đen


    Giữ hoàng thiên vốn quen quân hỏa

    Dưới trần gian kim táo hai nơi

    Cầm quyền khí bốc lên trời

    Tư thiên tả hữu chơi vơi nẻo nào


    Ta cũng biết âm hao sáu khí

    Nam bắc kia ngọ tý chi niên

    Tuần hoàn ra thế liên miên

    Đất xung bên tả lan truyền khí sơ.“


    Cũng tương tự như phần 197 thì phần 198 này tôi xin miễn bình giảng về những thuật ngữ y học tên các vị thuốc đông y đọc bằng chữ nho. Tập thơ cuả tôi cảm xúc sáng tạo ra từ tập Ngư Tiều y thuật vấn đáp (Ông Ngư, ông Tiều hỏi đáp về thuật chữa bệnh) là truyện thơ lục bát dài của Nguyễn Đình Chiểu. Hai nhân vật chính của truyện, Bào Tử Phược và Mộng Thế Triền vì gặp cảnh mất nước nên đã đi ở ẩn làm ngư ông, làm tiều phu, sau đó gặp được Châu Đạo Dẫn, Đường Nhập Môn và Kỳ Nhân Sư truyền cho y thuật trị bệnh cứu đời.


    Xưa nay sách thuốc rất nhiều, nên những người làm nghề thuốc không khỏi thở than về nỗi quá nhiều sách. Nếu học không có căn bản, thì khi chữa bệnh sẽ ngơ ngác như dựa vào khoảng không, cưỡi trên mây trên gió, không biết đâu mà lường là điểm dừng nữa.


    Nhìn chung, bệnh có nhiều biến hóa hư hư thực thực, nên phương có cách chữa chính, chữa phụ, chữa gốc , chữa ngọn, nên công, nên trước, nên sau, phải dùng cho phù hợp. Xét trị chỉ sai một chút thì sống chết khác nhau ngay, há chăng nên cẩn thận sao ? Cho nên nghề làm thuốc chỉ cốt tuỳ cơ ứng biến mà thôi.


    Bậc hiền nhân triết gia thuở trước thường nói :

    -"Tâm của người thầy thuốc giỏi giống như viên tướng có tài, mà phép dùng thuốc cứu người cũng tựa phép dùng binh đánh giặc".

    Phép dùng binh có khi đánh thẳng, có khi dùng mưu; dùng thuốc cũng vậy có lúc chữa bệnh chính, có lúc chữa biến chứng. Vốn không học phép dùng binh thì không thể thắng trận được.


    Phần này mục đích chính là để chèn những băng Video được nghệ sĩ Thu Hà diễn ngâm vào Youtube nếu có. Còn ngâm trực tiếp vào Facebook thì tôi vẫn chưa biết cách chuyến sang Youtube để chèn vào từng phần thơ được chính tác giả là Lu Hà tôi tự bình giảng.


    9.4.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share