Truyện Tình Hai Họ Dương Hà cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 50 “Loạn Nữ Chân biên cương khói lửa Giặc lui binh tuyển lựa anh tài Thi đình ban bố giáo đài Đầu ngao mỏi cổ gót hài xa xôi Thiếu Trạng Nguyên á khôi xuất hiện Bậc hiền nhân dâng hiến nước nhà Hai con bảng nhãn thám hoa Họ Dương mở mặt thuận hòa tông môn Chờ ngày tốt nghinh hôn dự tính Bỗng Dương Trân nhuốm bịnh thương hàn Tần Công ra lệnh Trần Đoàn Phát đi cáo thị xa gần xôn xao Thày thuốc giỏi lẽ nào chẳng có Chốn thiên thai ngọc thỏ lu mờ Dương Từ Hà Mậu vẩn vơ Cảnh chùa Linh Diệu xác xơ lá vàng Lão Nhan vốn giỏi giang tinh tú Pháp thuật cao vào phủ Thiên tào Dương Trân phát bịnh ra sao Sách khi cặn kẽ thuốc nào giải cơn Mối nhân duyên chập chờn đầu ngõ Truyện ân tình hai họ Hà Dương Hãy mau trở lại cố hương Mang theo đơn thuốc đoạn đường thì xa“ Hai anh em họ Dương dồn hết sức học tập để kỳ thi đình là vòng trung kết để đoạt giải trạng nguyên hay bảng nhãn và thám hoa, nên sau khi được vua phong tước cấp cờ biển để về quê vinh quy bái tổ, thì Dương Trân chả may mắc phải bệnh thương hàn. Cũng may lúc đó Dương Từ là người cha đang ở chỗ Lão Nhan tại chùa Linh Diệu là một đạo sĩ rất giỏi về chiêm tinh học và luyện đan dược, bốc thuốc trị bách bệnh. Vậy thuật chiêm tinh là gì? Là những người hay quan sát về các sự kiện thiên văn, chẳng hạn như chiêm tinh học Hindu, chiêm tinh học Trung Quốc, và nền văn minh Maya đã phát triển các hệ thống tỉ mỉ để dự đoán các sự kiện trên mặt đất bằng cách quan sát các thiên thể. Ở phương Tây, chiêm tinh học đa số chứa một hệ thống lá số tử vi (horoscope) có nội dung để giải thích các khía cạnh của nhân cách con người và dự đoán các sự kiện tương lai trong cuộc sống dựa trên vị trí mặt trời và mặt trăng và các thiên thể khác vào lúc sinh họ ra. Đa số các nhà chiêm tinh học nổi tiếng đều dựa trên các hệ thống dự đoán tương tự như vậy. Chiêm tinh học muốn dự đoán trước tương lai dựa trên tính toán sự chuyển động của các hành tinh, chòm sao... “Rày xum họp một nhà vui vẻ Cặp sinh đôi suôn sẻ thành thân Dương Từ Hà Mậu bần thần Chắp tay lạy tạ tần ngần suy vi Hà Mậu càng sinh nghi mới hỏi Tôi xa nhà chưa tới tuần trăng Tháng ngày chưa đủ tung tăng Hai con gái đã xích thằng rồi sao? Đạo sĩ cười lẽ nào chẳng biết Cõi nhân gian thảm thiết thương đau Thời gian vùn vụt qua mau Sinh già bệnh tử bạc màu gió mây Ở non tiên ngất ngây tận hưởng Một ngày thôi vui sướng xiết bao Ví bằng trần thế hư hao Năm dài tháng tận nghẹn ngào lệ rơi Theo giáp tý nhà ngươi còn nhớ Tính chưa ra vò võ trăng rằm Nắng mưa tầm tã tháng năm Thu Băng Xuân Tuyết mười lăm tuổi rồi Sư phụ dạy bồi hồi tâm dạ Hà Mậu nghe lòng đã xốn xang Đóng bao quẩy gánh vội vàng Dương Từ có thuốc cưu mang giống nòi Lý Tri Niên đứng coi thiên tượng Một vì sao hướng đổi hướng vần xoay Lờ mờ dần tỏ cho hay Dương Trân được cứu trong tày tấc gang Chén quỳnh tương bên đàng đưa tiễn Huynh đệ buồn chẳng tiện ngồi lâu Thiên thai trần thế sa châu Rừng sâu thẳm nương dâu bạt ngàn” Sau khi cả hai đạo sĩ Lão Nhan và Lý Trí Niên xem thiên tượng đã biết hai nhà Dương Hà có hỉ sự và riêng Dương Từ con trai bị bệnh nặng phải mau mau đem thuốc quý của sư phụ về để cứu con ngay. Truyện Tình Hai Họ Dương Hà cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 51 “Nhớ quê hương cản ngăn chẳng tiện Chuyện hai chàng Lưu Nguyễn xưa kia Ngàn thu khắc đá ghi bia Mộng tiên ấp ủ trau tria tuyệt vời Mới nửa năm nụ cười chưa thỏa Khi trở về con cháu bảy đời Dương quan cành liễu bẻ chơi Đào nguyên say đắm tìm người hái hoa“ Thiên Thai là tên của chuyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu đời nhà Hán nhân tiết Đoan Dương vào núi Thiên Thai hái thuốc, bị lạc lối về. Hai người tao ngộ tiên nữ, kết làm vợ chồng. Sống hạnh phúc được nửa năm thì hai chàng nhớ quê muốn về thăm. Các tiên nữ cho biết đây là cõi tiên, đã về trần là không thể trở lại, song vẫn không giữ được hai chàng. Khi Lưu và Nguyễn hồi hương thấy quang cảnh khác hẳn xưa, thì ra họ xa nhà đã bảy đời. Buồn bã, hai người trở lại Thiên Thai thì không thấy tiên đâu nữa... Thi sĩ Tản Đà có một bài thơ rất hay thuật theo từ một bài cổ văn Tầu “Xưa đời Hán ở bên Trung Quốc Tiết Đoan Dương hái thuốc là ai? Lưu Thần, Nguyễn Triệu hai người Rủ nhau vào núi Thiên Thai một ngày Đường luẩn quẩn đông tây chẳng biết Lương mang theo đã hết, không còn Đào đâu, trông thấy đầu non Bảo nhau lên hái ăn ngon đỡ lòng Xuống dưới núi thấy giòng nước chẩy Hột cơm vừng bỗng nẩy đâu ra Cùng nhau vui sướng bao là Rằng đây, hẳn nữa, không xa có người Lại qua tới một nơi đầu núi Thấy hai cô con gái tuyệt trần Gọi ngay Nguyễn Triệu, Lưu Thần Hỏi sao đến muộn cho phần chờ lâu Biết nhau mới, cùng nhau như cũ Theo hai cô mời rủ lại nhà Nhà lan huệ, áo lụa là Giường màn sẵn đó, ngọc ngà thiếu chi! Khắp sau trước nhìn đi ngoảnh lại Ngoài hai cô con gái còn ai? Toàn không một kẻ con trai Bạn trai chỉ có hai người là ta Ngồi một lát, bưng ra cơm rượu Cơm vừng thơm khác kiểu cơm thường Nem dê, ngon béo lạ thường Rượu ngon chuốc chén, hai chàng cùng xơi Khách đâu đến mấy người bạn gái Mỗi người đem dăm trái đào tơ Dâng đào vui vẻ chào thưa: Mừng hai rể mới bây giờ kết duyên Khắp chúng bạn, nhạc tiên đem gẩy Buổi chiều hôm ai nấy lại về... Hai chàng ở lại ngủ nghê Động phòng làm lễ, phu thê vui vầy Nằm quên cả là chầy hay chóng Tính hôm mai chừng đúng nửa năm Nửa năm xuân khí êm đềm Bên tai trăm tiếng con chim gợi sầu Lưu với Nguyễn cùng nhau thơ thẩn Nhớ quê hương lẩn thẩn xin về Hai cô thương xót trăm bề Rằng: “Hai anh đã muốn về thì thôi Thật nhờ có phúc đời để lại Cho các anh được tới nơi đây Trần gian chưa hết tội đầy Vui cùng tiên nữ mà rầy xin đi” Mở cửa động ca thi tiễn khách Thôi từ đây xa cách chư tiên Nguyễn, Lưu hai gã bạn hiền Cùng nhau lại trở lại miền thế gian Xa chẳng mấy, đến bên đường cái Về đến làng không một ai quen Bấy đời con cháu lớn lên Chỉ nghe cụ hái thuốc tiên không về Buồn lúc ấy không quê không quán Nỗi bơ vơ chán nản cõi đời Thiên Thai trở lại tìm ai Thôi thời cửa động đã cài then hoa“ Việt Nam cũng có truyện tương tự như trên là Từ Thức gặp tiên. Còn riêng Lu Hà tôi cũng có bài thơ: Lối Thiên Thai cảm hứng thơ Tản Đà: Tống Biệt Rêu xanh róc rách suối thiên thai Dấu cỏ non bồng đã mấy ai Một năm tiên cảnh như Từ Thức Thế kỷ thương hoài mộng khứ lai Hạc trắng bay lên tới cổng trời Duyên thiên đầu bạc hạt sương rơi Trời đất từ nay xa vạn dặm Đầu ghềnh hang động gió ru hời Nghìn thu thơ thẩn đóa hoa cười Bướm lượn ong vờn chấp chới chơi Khỉ ho cò gáy miền sơn dã Phảng phất hồn mây nguyệt lả lơi Tống biệt người xưa đào rắc lối Xe mây song mã biết khi nào Chàng về hạ giới tìm quê quán Thiếp ở cung vàng lệ ứa trào! 9.1.2018 Lu Hà “Lý trí Niên nhạt nhòa ngấn lệ Tặng bài thơ kể lể nguồn cơn Dương Từ Hà Mậu tủi hờn Gia tô Phật giáo cung đờn sầu ly Nước thánh rửa kinh kỳ mờ ảo Chúa năm đời dạy bảo con chiên Lạc đàn chạy đến núi tiên Gặp người khác đạo cửa thiền lìa xa Chén rượu đào ta bà rửa sạch Nỗi buồn riêng còn trách chi ai Thảnh thơi suối tắm hươu nai Tránh đời dâu bể dấu hài cỏ may Gậy thần thông rút ngay mấy đoạn Mở mắt nhìn chi quản đường xa Phút đâu đã thấy quê nhà Bình phong che chắn vào ra công đường May mắn thay Đỗ Nương trước phủ Đứng cạnh bên là cậu em xưa Còn đâu cảnh ngộ muối dưa Tiếng gà xao xác sớm trưa bần hàn Tình phu phụ chứa chan giọt lệ Huynh đệ mừng vui vẻ thiết tha Bấy lâu anh đã xa nhà Hai con khôn lớn quan nha lượt là Có phải chăng phật Đà phù trợ Bõ công người gõ mõ cầu kinh Thuốc tiên mang sẵn trong mình Dương Trân liền uống bệnh tình giảm ngay Mười lăm năm hôm nay đoàn tụ Nợ oan gia trái chủ tiêu tan Tháng ngày khổ lụy gian nan Chất sầu làm gối lệ chan mưa hòa Nỗi buồn cũng nhạt nhòa năm tháng Ngậm bồ hòn cay đắng xót xa Vọng phu ngấm giọt mưa sa Lòng trời chẳng phụ mà ra đá vàng Nhờ hai trẻ tiếng vang thiên hạ Đứng đầu triều văn bá mấy ai Tước phong ngũ phẩm hiền tài Tần Công ưu ái trúc mai vẹn tròn Hai tiểu thư môi son má phấn Khách tiêu phòng tủi hận kém may Dương Trân Dương Bửu đắm say Chọn ngày nạp thái rước ngay dâu về Dương Từ nghe hả hê từng khúc Ruột nở ra cầu chúc hai con Hà huynh sau trước sắt son Thu Băng Xuân Tuyết tuổi tròn mười lăm“ 4.4.2020 Lu Hà