Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 189

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 4 3, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 46


    “Người mẹ già bồi hồi xúc động

    Dặn hai con lương đống hiền tài

    Tang bồng hồ thỉ mấy ai

    Trung quân báo quốc sức trai phỉ nguyền


    Mẹ cam chịu ưu phiền túng thiếu

    Mặc hai con lo liệu mọi bề

    Phong trần dặm nẻo sơn khê

    Công thành danh toại tràn trề tương lai“


    Lương đống nghĩa là rường cột và nóc nhà, nghĩa bóng là chỗ dựa của nước nhà. Lương đống nguy nga chỉ nhà cửa cao đẹp.

    Tang hồ bồng thỉ nghĩa là “Tang” là dâu, “hồ” là cung, “tang hồ” là cung bằng gỗ cây dâu. “Bồng” là “cỏ bồng”, “thỉ” là “tên”, “hồ thỉ” là tên bằng cỏ bồng. Tang hồ bồng thỉ, nghĩa là cung làm bằng gỗ dâu, tên làm bằng cỏ bồng. Ngày xưa bên Tàu, hễ sinh con trai thì dùng loại cung tên này bắn sáu phát; bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời, còn một phát xuống đất. Ý nghĩa của việc làm này là sau này trưởng thành, hy vọng người con trai sẽ mang chí lớn đầu đội trời chân đạp đất gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.


    “Lễ tiểu khoa trai tài gái sắc

    Cờ biển ban chim hạc bay cao

    Thám hoa bảng nhãn nhất trào

    Chờ ngày võng lọng xôn xao xóm làng“


    Lễ tiểu khoa nghĩa là kết hôn cưới vợ sau khi người con trai đã hoàn thành lễ đại khoa tức là thi đỗ thành đạt. Bảng nhãn là một danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống giáo dục của China và Việt Nam thời phong kiến.


    Ở Việt Nam, danh hiệu này được xác định trong kỳ thi bậc nhất của thi Đình, còn gọi là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, nhị danh. Người thi đỗ bảng nhãn đứng thứ hai trong tam khôi dưới trạng nguyên, trên thám hoa.


    “Nơi hậu viện Tuyết Băng hai ả

    Mơ tân lang thư thả gót hài

    Dương Trân Dương Bửu khoan thai

    Cúi đầu ba lễ cân đai sảnh đường


    Không theo Phật chẳng tường Nho giáo

    Đạo Hòa Lan chưa thạo đường đi

    Nghẹn ngào bồ liễu nữ nhi

    Thu Băng Xuân Tuyết thầm thì Chúa ơi!


    Họ hàng ai tới nơi thăm hỏi

    Phủ Tần Công vời vợi cao sang

    Cha tu mẹ dưới suối vàng

    Họ Tần nhờ cậy khang trang cửa lầu


    Nay chẳng thiếu kẻ hầu người hạ

    Hai tiểu thư vàng đá trăm năm

    Hương thơm ngây ngất trăng rằm

    Xe dây kết tóc con tằm nhả tơ


    Soạn sáu bản nhạc thơ tao nhã

    Khúc tương tư bả lả xốn xang

    Thướt tha yểu điệu dịu dàng

    Dương Từ Hà Mậu mơ màng canh thâu


    Nghe réo rắt phụng cầu Tư Mã

    Trác Văn Quân nghiêng ngả năm nào

    Thuyền quyên thục nữ má đào

    Trai hùng hội ngộ thi hào đờn ca


    Tiếng cầm sắt bay xa tha thiết

    Hai chị em da diết tân lang

    Kim bôi hợp cẩn thiếp chàng

    Hai đôi loan phượng xích thằng nỉ non


    Nhưng than ôi duyên còn xa lắc

    Mộng kê vàng dằng dặc Nam Kha

    Bao giờ trọn vẹn hai nhà

    Dương Từ Hà Mậu cung nga mận đào


    Cha mẹ nuôi dựa vào Nho đạo

    Kén rể hiền Khổng giáo thư sinh

    Chị em ráng sức hết mình

    Công dung ngôn hạnh tuyệt tình Gia tô


    Hai mươi bốn thảo phô đầu ngõ

    Ánh trăng vàng ngọc thỏ ai hay

    Trời sinh đất dưỡng ơn dày

    Mẹ cha khó nhọc tháng ngày lầm than”


    Đoạn thơ trên tôi mô tả giấc mơ của hai chị em con gái vợ chồng Hà Mậu Liễu Nương, hai nàng Thu Băng và Xuân Tuyết đã trở thành hai tiểu thư nhà họ Tần về hai chàng Dương Trân và Dương Bửu sẽ đi thi đình tuyển chọn tiến sĩ và đỗ cao thứ hai và thứ ba sau trạng nguyên là bảng nhãn và thám hoa.



    Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 47


    “Công phụ mẫu non ngàn biển rộng

    Tháng năm hoài nòi giống sắt son

    Lẽ nào sinh sự mất còn

    Cha con khác đạo héo hon cõi lòng


    Đạo vua tôi theo dòng thế kỷ

    Kẻ tiểu nhân ghen tỵ hẹp hòi

    Tề gia tu đức sáng soi

    Bình yên thiên hạ rạch ròi giang san


    Khi xã tắc gian nan trợ giúp

    Gặp địch quân đánh úp sau lưng

    Sĩ phu chớ có lừng khừng

    Gian thần loại bỏ thanh trừng kiêu binh


    Đạo vợ chồng gia đình êm ấm

    Giàu nghèo đều giữ tấm tình thương

    Trước sau phép tắc cương thường

    Anh em họ mạc quê hương trọn lòng


    Người quân tử chẳng mong quyền quý

    Phải uốn lưng quỵ lụy chui luồn

    Bầy đàn sâu mọt con buôn

    Tham quan ác bá bán trôn nuôi mồm


    Lũ ăn theo chồm hôm cẩu tặc

    Chút cơm thừa tàn ác hại người

    Thị phi reo rắc muôn nơi

    Đặt điều vu khống đánh hơi cắn càn


    Giọng thơ ngâm cung đàn thảm thiết

    Thật tài tình Xuân Tuyết Thu Băng

    Lẽ đời đạo hạnh ai bằng

    Nàng Ban ả Tạ dễ dàng chịu thua“


    Nàng Ban tức là Ban Chiêu, tự Huệ Cơ sinh trưởng trong gia đình Nho học, cha anh đều là bậc công thần học thức uyên bác. Ban Chiêu rất thông minh, 13 tuổi đã giỏi thi phú. Đến tuổi cặp kê, Ban Chiêu sánh duyên cùng Tào Thế Thức, cũng là một nhà nho lỗi lạc.

    Ăn ở với nhau được 10 năm, Thức chết, nàng thủ tiết thờ chồng. Nhà vua nghe danh nàng Ban học rộng tài cao nên cho vời vào cung dạy các hoàng tử, cung phi. Ai ai cũng tôn trọng là bực thầy.

    Lúc bấy giờ, Ban Bưu đương làm quan tại triều, được vua cử soạn bộ Hán Thư. Nhưng làm chưa xong, Ban Bưu chết. Anh của nàng là Ban Cố được lịnh kế nghiệp cha, nhưng công việc chưa xong thì bị bệnh nặng rồi mất.

    Thấy cha và anh bỏ dở công việc, Ban Chiêu tâu xin nhà vua cho nàng được tiếp tục biên soạn bộ Hán Thư. Vua Hòa Đế bằng lòng. Nàng được vào Đông quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn bộ Hán Thư mà cha và anh chẳng may bỏ dở. Trong thời gian này, Ban Chiêu còn trứ tác tập "Nữ giới" gồm có 7 thiên. Danh tiếng của nàng càng lẫy lừng.


    Tạ Đạo Uẩn, con nhà thế phiệt đời nhà Tấn. Tạ Đạo Uẩn lúc nhỏ đã thông minh, học rộng lại có tài biện luận. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết, hỏi:

    - Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?

    Tạ Lãng đáp:

    - Muối trắng ném giữa trời.

    Tạ Đạo Uẩn bảo:

    - Thế mà chưa bằng "Gió thổi tung tơ liễu".

    Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu rằng:

    - Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bực công khanh.

    Tạ Đạo Uẩn sau kết duyên vớI Vương Ngưng Chi, một nhà nho lỗi lạc đương thời.

    Làm vợ họ Vương, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm luận thi phú. Nàng tỏ ra là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục.

    Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Thiếu Chi. Người học giỏi nhưng lập luận kém cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Thiếu Chi làm một cái màn che lại, nàng sẽ ngồi sau để nhắc Thiếu Chi trong khi biện luận với khách.

    Thiếu Chi nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.

    Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ có tài danh về thi phú văn chương. Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn thuật nàng Kiều sang chỗ ở của Kim Trọng và đề thơ trên bức tranh, Kim Trọng khen nàng:

    “Khen tài nhả ngọc phun châu.

    Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này”



    “Giỏi nữ công thêu thùa khéo léo

    Hai tiểu thư trêu ghẹo dưới trăng

    Chủ hôn đã có chị Hằng

    Dương Trân Dương Bửu thung thăng đợi chờ


    Lòng xao động ngẩn ngơ phu tử

    Trộm đứng nhìn tư lự vấn vương

    Hai chàng ấp bóng góc tường

    Càng say vẻ ngọc càng vương vấn tình


    Khúc đoạn trường sinh linh đồ thán

    Cõi nhân gian hoạn nạn dồn nhau

    Thiên tai bệnh dịch khổ đau

    Gây ra mầm họa vàng thau bụi mờ


    Biết bao kẻ nhuốc nhơ tội lỗi

    Mưu lợi riêng lạc lối bá quyền

    Tập đoàn ăn chặn bạc tiền

    Ăn chơi trác táng bon chen điếm đàng


    Nghe tiếng đờn trăng vàng thểu não

    Đom đóm bay lảo đảo bước chân

    Dương Trân Dương Bửu lại gần

    Hoa xinh bẽn lẽn giai nhân thẹn thùng


    Hàng quốc sắc trai hùng gặp mặt

    Bậc văn nhân xếp đặt ý trời

    Kẻ chào người đón tươi cười

    Lòng trong như đã ngoài lời còn e


    Quan tổng trấn hả hê mới gọi

    Đoàn huyện quan tươi rói nụ cười

    Phu nhân khen thưởng ngỏ lời

    Bạc vàng gấm vóc về nơi dưỡng già


    Nhạc phụ mẫu trau tria hai rể

    Cấp ngựa xe đủ lễ về làng

    Hai thày cử nhỏ xênh xang

    Về thăm mẹ cậu họ hàng tổ tông”


    Đoạn thơ này miêu tả hai cặp song sinh gặp nhau dưới ánh trăng ở hậu viên phủ Tần Công, họ rất ăn ý hợp nhau cũng tình tứ nên thơ như cảnh chiều tà Thúy Kiều gặp Kim Trọng bên cạnh mả Đạm Tiên cũng được tôi miêu tả bằng thơ song thất lục bát trong tập Tài Mệnh Tương Đố



    “Hồn thổn thức bi ai ảo não

    Ba chị em lảo đảo toàn thân

    Bỗng đâu sáo nhạc xa gần

    Ra về chẳng nỡ tần ngần ngẩn ngơ


    Linh cảm khéo tình cờ như báo

    Dáng thư sinh đạo mạo thung thăng

    Tay cương buông lỏng dặm băng

    Túi thơ bầu rượu gió trăng khác người


    Đàn cá trắng chơi vơi chờ đợi

    Sóng lăn tăn chới với bần thần

    Tiểu đồng hai đứa theo chân

    Aó xanh thanh thoát tao nhân đề huề


    Màu cỏ nhuộm đê mê ngây ngất

    Non da trời phảng phất quỳnh dao

    Vương Quan bước tới hỏi chào

    Khách đà xuống ngựa dạt dào lòng hoa


    Mặt mừng rỡ thái hòa chúc tụng

    Hai chị em lúng túng làm sao

    Cúi đầu nấp dưới cành đào

    Vân Kiều thỏ thẻ dạt dào tuyết sương


    Chàng Kim Trọng văn chương vốn liếng

    Dòng trâm anh có tiếng gần xa

    Xôn xao vẫn nước non nhà

    Với Vương Quan, mới khéo là bạn thân


    Vẫn hâm mộ hương lân đồng Tước

    Nhà Họ Vương có được xuân Kiều

    Giang Nam thơ mộng mĩ miều

    Phong lan ngào ngạt yêu chiều cả hai


    Lòng xao xuyến anh tài nữ sắc

    Nổi cờ lên ngơ ngác nhìn nhau

    Thẹn thùng kẻ trước người sau

    Lần khân chẳng tiện trời mau tối dần…“


    3.4.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share