Truyện Tình Hai Họ Dương Hà cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 41 “Rủ con nít nhiều thằng kết bạn Suốt cả ngày chẳng chán vui chơi Châu Khê cảnh đẹp tuyệt vời Miếu thờ giáo Thọ là nơi linh thần Thật may mắn thánh nhân ngồi đó Bậc tôn sư sáng tỏ rạng ngời Văn nhân tuấn kiệt hai ngươi Anh hoa phát tiết đất trời quang vinh Vội quỳ xuống tiểu sinh trăm lạy Xin hiện thân chỉ dạy đôi lời Bất ngờ tượng đá mỉm cười Bệ thềm có cuốn sửa đời chăn dân Từ kim cổ quân thần phụ tử Lấy hiếu trung thi tứ văn chương Hai con chớ có xem thường Anh em cùng đọc triều cương thuận hoà Sách giáo hoá làm quà gặp mặt Phải thành tâm bền chặt bốn phương Tề gia trị quốc kiêm nhường Lấy dân làm gốc kỷ cương rạch ròi Dùng nhân nghĩa trọng coi chữ tín Trong gia đình bịn rịn phu thê Không theo tà giáo u mê Vô thần bá đạo chó dê lạc loài Minh đức thi trần ai văng vẳng Vọng bên tai sang sảng ngâm nga Ngược xuôi trong cõi sa bà Thanh gươm cật ngựa sơn hà quản chi“ Hai anh em Dương Trân Dương Bửu vui chơi nô đùa cùng với bọn trẻ con cùng trang lứa trong làng người cậu, nhưng vô tình cả hai laị vào miếu thờ ông giáo Thọ là một nhà nho uyên bác. Ông giáo rất hiển linh ban cho hai cậu học trò nhỏ cuốn sách quý dạy cách viết chữ sơ học cơ bản về đạo nho. Thật ra thời xuân thu bên cạnh phái Nho gia còn có phái Mạc gia cũng rất bác học uyên thâm, đến đời nhà Tấn chủ trương tôn thờ Nho giáo. Vậy Nho giáo cụ thể cơ bản là gì? Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý,... Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công. Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. “Sống không vui chết thì chẳng sợ Trăm họ giàu nghèo khó thánh ân Muôn loài tạo hóa có phần Công minh chính trực thần dân cậy nhờ Bất khả nhục tôn thờ kẻ sĩ Lũ tiểu nhân thần trí lu mờ Tấm lòng chớ để nhuốc nhơ Gương trong vẩn đục hững hờ non sông Được sách quý một công đôi việc Hai anh em bắt chiếc viết ra Thong dong dưới ánh trăng ngà Lấy que làm bút thiết tha học hành Tròn tám tuổi lớn nhanh như thổi Dáng khôi ngô nổi trội khác đời Đồn thày Trình Kiệt là nơi Thú vui dạy trẻ nên người trong thôn Buổi cuối thu bồn chồn trong dạ Cùng học trò suối đá ngao du Châu Khê gió thổi vi vu Thấy hai ông lão che dù sườn non Miền cẩm thạch chon von thánh thót Suối reo ca tiếng hót chim muông Thấy bầy hươu chạy như tuồng Ra câu đối khó Thạch Công luận bàn Vừa lúc đó Dương Trân Dương Bửu Vạn bối xin cầu cứu thánh minh Ngôn từ miệng lưỡi tiểu sinh Thày Trình cảm phục thất kinh thần đồng“ Truyện Tình Hai Họ Dương Hà cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 42 „Hai trẻ nhỏ hanh thông sáng láng Thày bám theo bước thẳng vào nhà Ngỏ lòng cậu mẹ thiết tha Xin nuôi Trân Bửu nhân hà cầu mong Đường quan lộ thong dong ngày tháng Đỡ gia đình tỏ rạng phiếu mai Quốc gia lương đống hiền tài Kinh bang tế thế trần ai mấy người Đỗ nương Đỗ Khoái rơi dòng lệ Hai chị em san sẻ niềm vui Họ hàng lối xóm tới lui Chúc mừng hai cháu mài dùi kinh thư Nơi lầu hạc thiên tư chẳng phụ Thày thương yêu truyền thụ kiến văn Đường thi sĩ tử luận bàn Anh hoa phát tiết chứa chan ân tình Tuổi thiếu niên thông minh tột bậc Đã ba năm như giấc chiêm bao Chị em họ Đỗ nghẹn ngào Dương Từ hai giọt máu đào chảy xuôi Ơn Phật tổ thuyền trôi bát nhã Cập bến từ thong thả Như lai Đài sen ngào ngạt ban mai Trong veo nước suối một hai chốn nào Thơ Lục Nga cù lao chín chữ Miếu Hà thần do dự mãi sao Bây giờ cha ở nơi nao Hỏi dò cậu mẹ thế nào cũng xong“ Thiên lục nga thuộc phần tiểu nhã trong kinh thư gồm 6 chương nói về công ơn cha mẹ và phận làm con. Trong Hán văn có câu: “ lục lục nga, phỉ nga y hao, ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao“.Nghĩa là dài lớn là cỏ nga, còn được gọi là cỏ hao, thương thay cha mẹ, nuôi ta khó nhọc biết bao. Chín chữ cù lao gồm: sinh (đẻ), cúc (nuôi), phủ (vỗ về), súc (nuôi dưỡng), trưởng (chăm sóc cho lớn), dục (ấp ủ chiều chuộng nâng niu), cố (ngoái lại), phục (trở lại), phúc (ẵm vào lòng). Trong sách ghi chép có 24 thảo gọi là nhị thập tứ hiếu: Ngu Thuấn hiếu cảm động trời, Lưu Hằng (Hán văn Đế) nếm thuốc, Tăng Sâm mẹ cắn ngón tay tim con đau xót, Mẫn Tốn nghe lời mẹ với quần áo giarn dị, Trọng Do vác gạo nuôi cha mẹ, Đổng Vĩnh bán thân chôn cha, Đàm Tử cho cho mẹ uống sữa hươu, Giang Cách làm thuê nuôi mẹ, Lục Tích giấu quýt cho mẹ, Đường phu nhân cho mẹ chồng bú sữa, Ngô Mãnh cho muỗi hút máu… “Non Tùng Lãnh cầu mong đắc đạo Aó cà sa tam bảo là nơi Lại nghe Lão Tử thảnh thơi Tu tiên dang dở chơi vơi nửa đường Cũng chẳng ngại dặm trường cách trở Hai chúng con lên đó tìm cha Hiểm nguy quan ải sơn hà Chắp tay quỳ lạy thiết tha toại nguyền Đỗ nương từng thuyền quyên thục nữ Chẳng nề hà tư lự bố kinh Gìa nua chi trách phận mình Hai con quyết chí thuận tình ra đi Thật đáng mặt tu mi nam tử Thấy cảnh chùa thi tứ thẫn thờ Sãi Mầm thày Lộc ngẩn ngơ Thiện Trai chẳng rõ bây giờ ở đâu? Đại sư đã cạo râu xuống tóc Tám năm rồi khó nhọc biết bao Tụng kinh gõ mõ thế nào Làm sao biết được núi cao rừng già“ Dương Trân Dương Bửu tuy còn nhỏ tuổi sau khi được thày giáo truyền thụ giáo dục kiến thực sơ khai về đạo thánh hiền, phận làm con mới hỏi mẹ và cậu về cha của mình. Hai cậu thiếu niên đã tới ngôi chùa mà người cha đã xuống tóc đi tu, nhưng tiếc thay cha đã bỏ đi từ lâu rồi, bặt vô âm tín. 27.3.2020 Lu Hà