Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 186

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 3 29, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 41


    “Rủ con nít nhiều thằng kết bạn

    Suốt cả ngày chẳng chán vui chơi

    Châu Khê cảnh đẹp tuyệt vời

    Miếu thờ giáo Thọ là nơi linh thần


    Thật may mắn thánh nhân ngồi đó

    Bậc tôn sư sáng tỏ rạng ngời

    Văn nhân tuấn kiệt hai ngươi

    Anh hoa phát tiết đất trời quang vinh


    Vội quỳ xuống tiểu sinh trăm lạy

    Xin hiện thân chỉ dạy đôi lời

    Bất ngờ tượng đá mỉm cười

    Bệ thềm có cuốn sửa đời chăn dân


    Từ kim cổ quân thần phụ tử

    Lấy hiếu trung thi tứ văn chương

    Hai con chớ có xem thường

    Anh em cùng đọc triều cương thuận hoà


    Sách giáo hoá làm quà gặp mặt

    Phải thành tâm bền chặt bốn phương

    Tề gia trị quốc kiêm nhường

    Lấy dân làm gốc kỷ cương rạch ròi


    Dùng nhân nghĩa trọng coi chữ tín

    Trong gia đình bịn rịn phu thê

    Không theo tà giáo u mê

    Vô thần bá đạo chó dê lạc loài


    Minh đức thi trần ai văng vẳng

    Vọng bên tai sang sảng ngâm nga

    Ngược xuôi trong cõi sa bà

    Thanh gươm cật ngựa sơn hà quản chi“


    Hai anh em Dương Trân Dương Bửu vui chơi nô đùa cùng với bọn trẻ con cùng trang lứa trong làng người cậu, nhưng vô tình cả hai laị vào miếu thờ ông giáo Thọ là một nhà nho uyên bác. Ông giáo rất hiển linh ban cho hai cậu học trò nhỏ cuốn sách quý dạy cách viết chữ sơ học cơ bản về đạo nho. Thật ra thời xuân thu bên cạnh phái Nho gia còn có phái Mạc gia cũng rất bác học uyên thâm, đến đời nhà Tấn chủ trương tôn thờ Nho giáo. Vậy Nho giáo cụ thể cơ bản là gì?

    Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý,...


    Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công.


    Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử.


    “Sống không vui chết thì chẳng sợ

    Trăm họ giàu nghèo khó thánh ân

    Muôn loài tạo hóa có phần

    Công minh chính trực thần dân cậy nhờ


    Bất khả nhục tôn thờ kẻ sĩ

    Lũ tiểu nhân thần trí lu mờ

    Tấm lòng chớ để nhuốc nhơ

    Gương trong vẩn đục hững hờ non sông


    Được sách quý một công đôi việc

    Hai anh em bắt chiếc viết ra

    Thong dong dưới ánh trăng ngà

    Lấy que làm bút thiết tha học hành


    Tròn tám tuổi lớn nhanh như thổi

    Dáng khôi ngô nổi trội khác đời

    Đồn thày Trình Kiệt là nơi

    Thú vui dạy trẻ nên người trong thôn


    Buổi cuối thu bồn chồn trong dạ

    Cùng học trò suối đá ngao du

    Châu Khê gió thổi vi vu

    Thấy hai ông lão che dù sườn non


    Miền cẩm thạch chon von thánh thót

    Suối reo ca tiếng hót chim muông

    Thấy bầy hươu chạy như tuồng

    Ra câu đối khó Thạch Công luận bàn


    Vừa lúc đó Dương Trân Dương Bửu

    Vạn bối xin cầu cứu thánh minh

    Ngôn từ miệng lưỡi tiểu sinh

    Thày Trình cảm phục thất kinh thần đồng“



    Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 42


    „Hai trẻ nhỏ hanh thông sáng láng

    Thày bám theo bước thẳng vào nhà

    Ngỏ lòng cậu mẹ thiết tha

    Xin nuôi Trân Bửu nhân hà cầu mong


    Đường quan lộ thong dong ngày tháng

    Đỡ gia đình tỏ rạng phiếu mai

    Quốc gia lương đống hiền tài

    Kinh bang tế thế trần ai mấy người


    Đỗ nương Đỗ Khoái rơi dòng lệ

    Hai chị em san sẻ niềm vui

    Họ hàng lối xóm tới lui

    Chúc mừng hai cháu mài dùi kinh thư


    Nơi lầu hạc thiên tư chẳng phụ

    Thày thương yêu truyền thụ kiến văn

    Đường thi sĩ tử luận bàn

    Anh hoa phát tiết chứa chan ân tình


    Tuổi thiếu niên thông minh tột bậc

    Đã ba năm như giấc chiêm bao

    Chị em họ Đỗ nghẹn ngào

    Dương Từ hai giọt máu đào chảy xuôi


    Ơn Phật tổ thuyền trôi bát nhã

    Cập bến từ thong thả Như lai

    Đài sen ngào ngạt ban mai

    Trong veo nước suối một hai chốn nào


    Thơ Lục Nga cù lao chín chữ

    Miếu Hà thần do dự mãi sao

    Bây giờ cha ở nơi nao

    Hỏi dò cậu mẹ thế nào cũng xong“


    Thiên lục nga thuộc phần tiểu nhã trong kinh thư gồm 6 chương nói về công ơn cha mẹ và phận làm con. Trong Hán văn có câu: “ lục lục nga, phỉ nga y hao, ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao“.Nghĩa là dài lớn là cỏ nga, còn được gọi là cỏ hao, thương thay cha mẹ, nuôi ta khó nhọc biết bao.

    Chín chữ cù lao gồm: sinh (đẻ), cúc (nuôi), phủ (vỗ về), súc (nuôi dưỡng), trưởng (chăm sóc cho lớn), dục (ấp ủ chiều chuộng nâng niu), cố (ngoái lại), phục (trở lại), phúc (ẵm vào lòng). Trong sách ghi chép có 24 thảo gọi là nhị thập tứ hiếu:

    Ngu Thuấn hiếu cảm động trời, Lưu Hằng (Hán văn Đế) nếm thuốc, Tăng Sâm mẹ cắn ngón tay tim con đau xót, Mẫn Tốn nghe lời mẹ với quần áo giarn dị, Trọng Do vác gạo nuôi cha mẹ, Đổng Vĩnh bán thân chôn cha, Đàm Tử cho cho mẹ uống sữa hươu, Giang Cách làm thuê nuôi mẹ, Lục Tích giấu quýt cho mẹ, Đường phu nhân cho mẹ chồng bú sữa, Ngô Mãnh cho muỗi hút máu…


    “Non Tùng Lãnh cầu mong đắc đạo

    Aó cà sa tam bảo là nơi

    Lại nghe Lão Tử thảnh thơi

    Tu tiên dang dở chơi vơi nửa đường


    Cũng chẳng ngại dặm trường cách trở

    Hai chúng con lên đó tìm cha

    Hiểm nguy quan ải sơn hà

    Chắp tay quỳ lạy thiết tha toại nguyền


    Đỗ nương từng thuyền quyên thục nữ

    Chẳng nề hà tư lự bố kinh

    Gìa nua chi trách phận mình

    Hai con quyết chí thuận tình ra đi


    Thật đáng mặt tu mi nam tử

    Thấy cảnh chùa thi tứ thẫn thờ

    Sãi Mầm thày Lộc ngẩn ngơ

    Thiện Trai chẳng rõ bây giờ ở đâu?


    Đại sư đã cạo râu xuống tóc

    Tám năm rồi khó nhọc biết bao

    Tụng kinh gõ mõ thế nào

    Làm sao biết được núi cao rừng già“


    Dương Trân Dương Bửu tuy còn nhỏ tuổi sau khi được thày giáo truyền thụ giáo dục kiến thực sơ khai về đạo thánh hiền, phận làm con mới hỏi mẹ và cậu về cha của mình. Hai cậu thiếu niên đã tới ngôi chùa mà người cha đã xuống tóc đi tu, nhưng tiếc thay cha đã bỏ đi từ lâu rồi, bặt vô âm tín.


    27.3.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share