Truyện Tình Hai Họ Dương Hà cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu Bài 36 “Đáng thương thay long đong ngày tháng Trải biết bao cay đắng xót xa Ngược xuôi trong cõi người ta Mân côi tràng hạt ông cha lầm đường? Nghe đạo sĩ xiển dương Nho giáo Thuật chiêu hồn bá đạo tà ma Giàu lòng nhân ái vị tha Nghi ngờ Chúa Phật mà ra nỗi này Hai ngã đã mê say linh dược Hồn ngất ngây thao thức tu tiên Khổng Khưu Lý Nhĩ bạn hiền Thịnh đường thi phú kỷ nguyên vững bền“ Thật đáng tiếc cho hai chàng Dương Từ Hà Mậu sinh thời vào lúc bấy giờ ảnh hưởng của Nho giáo quá mạnh, thuyết thuận theo tự nhiên máy trời tương đối hợp với khoa học tự nhiên của Lão Tử cũng như luân hồi nghiệp quả Phật giáo và cả Ki tô giáo tin vào sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa, bàn tay sáng tạo kỳ diệu của Ngài bằng các quy luật tự nhiên mà ngày nay con người cố tìm tòi khám phá chắp nối lại thành một chuỗi dây xích mà chúng ta quen gọi là lô gich. Dương Từ và Hà Mậu nghi ngờ và mất lòng tin vaò Phật Thích Ca và Chúa Jesus Christ. Dương Từ tìm đến đạo thần tiên một biến tướng của Đạo Lão. “Núi thiên thai thiên nhiên huyền diệu Càng thong dong soi chiếu việc đời Vách tường thơ vịnh cảnh chơi Lầu hoa san sát thảnh thơi mấy ngày Tám thú vui ai hay sĩ tử Từng sôi kinh nấu sử mươi pho Quý gì hơn mực học trò Thanh tao uyên bác rừng nho thánh hiền Ráng công mò tráng niên tuấn kiệt Khương Tử Nha tha thiết mỉm cười Khen thay ông lão bảy mươi Tóc râu bạc trắng bao đời soi gương Khi nắng hạ ruộng nương cày cấy Lúc mưa thu nhờ cậy ruộng vườn Con trâu cơ nghiệp nào hơn Mùa màng tươi tốt đòi cơn mộng tình Túi linh đan sinh linh cứu mạng Khắp đó đây ánh sáng mặt trời Mạch coi ngán kẻ ăn chơi Năm mùi tánh dược nụ cười đại phu Chúa Phục hy thiên thu vạn đại Phảng phất mùi hương ngải gió bay Khai ra tám quẻ rủi may Sáu hào chi để đắng cay cuộc đời Cát hung muôn việc lời suy đoán Thời thế ngàn năm hạn đến ngày Tháp trời bày vẽ ai hay Đỏ đen vận mệnh lắt lay kiếp người Hóa công máy móc trong trời đất Khắp muôn nơi chân thật cất xây Năm hành sắm đủ vui vầy Theo hình mẫu vật nảy dây mực tàu Thợ sáu phủ đua nhau khéo léo Chẳng vụng về xiêu vẹo ngả nghiêng Ngàn năm sông núi linh thiêng Đền đài miếu mạo trống chiêng ngất trời“ Đoạn thơ trên tôi mô tả phần nào những thành tựu mà phái Nho gia đã đạt được qua các đời vua, nhất là đời nhà Chu như Thi kinh tức kinh thư tên một pho sách ghi chép lại những câu ca dao, những bài hát cổ của Tàu khoảng chừng 3000 thiên, sau Khổng Tử soạn lại cô đọng lại còn 305 thiên chia làm 4 thể: quốc phong, tiểu nhã, đại ngã, và tụng. Khương Tử Nha là một vị khai quốc công thần nhà Chu và là quân chủ khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử nước Tàu, là vị quân chủ đầu tiên của nước Tề, nên thông thường còn được gọi là Tề Thái Công còn gọi là Khương Thái Công, Thái Công Vọng hay Lã Vọng. Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập nên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Tàu. Ông trở nên nổi tiếng trong văn hóa Đông Á qua điển tích Thái Công điếu ngư Thái Công câu cá hay còn gọi là Lã Vọng câu cá. Truyện Tình Hai Họ Dương Hà cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu Bài 37 “Việc buôn bán lợi người ích quốc Cách chợ sanh từng bước phồn vinh Trái cân Yên Tử thái bình Thuận hòa xã hội nhân tình hoan ca Đào Công ghi sổ mà ra Ngày mai được giá cửa nhà khang trang Gia đình êm êm ấm thiếp chàng Con đàn cháu đống giàu sang ai bằng“ Phạm Lãi biểu tự Thiếu Bá,còn gọi là Phạm Bá hay Đào Chu Công, là một danh sĩ của nước Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, nổi tiếng thông tuệ, học thức và vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô, quốc gia trước đó nhờ vào Ngũ Tử Tư đã đánh bại nước Sở hùng mạnh. Ông nổi tiếng như một thần đồng, từ kinh sử và văn học, đến kinh tế lẫn chính trị đều hơn người, các tác phẩm của ông như Binh phápvà Dưỡng ngư kinh đã thất lạc, chỉ còn sót lại dẫn cú trong Văn tuyển . Ngoài ra ông còn tập Đào Chu công sinh ý kinh nói về thương mại cũng rất nổi tiếng. “Nghề chài lưới thênh thang ngày tháng Cá đầy thuyền xếp hạng bình dân Hương thơm nô nức xa gần Biếng theo ông Lữ tủi thân cuối đời Cầu danh lợi chơi vơi thần trí Bói thủy ngư tước vị Ngũ Viên Giang hồ thanh kiếm lập nên Quốc gia giềng mối tạo nền thái hưng Thú thứ tám lộc rừng no đủ Cán rìu kia chẳng phụ tiều phu Thi đường để lại thiên thu Dương Từ Hà Mậu vân du cảnh chùa Trong am động bốn mùa thay đổi Nguyện đồng tâm sớm tối bên nhau Lân la ngày tháng trước sau Nắng mưa chi quản nhạt màu trần ai Đây vốn cảnh thiên thai ẩn dật Với thiên nhiên thành thật tâm hồn Bướm hoa tha thiết bồn chồn Quỳnh lâm réo rắt suối tuôn mạch ngầm Lý Tri Niên từ tâm nhân hậu Với Dương Từ Hà Mậu kết giao Khác chi huynh đệ vườn đào Lưu Quan Trương nọ nghẹn ngào lâm ly Giờ kể đến Châu Kỳ nhớ bạn Có năm thì hạn hán khó khăn Mất mùa than thở trở trăn Gánh sầu nặng trĩu ăn năn tại mình Tháng năm tới chân tình thăm hỏi Liễu nương buồn còm cõi héo hon Đói no nuôi dạy hai con Mượn người sông nước núi non dò tìm Vẫn biền biệt cánh chim tăm cá Lòng thủy chúng vàng đá phôi pha Tám năm vật vã cảnh nhà Châu Kỳ bốc thuốc xót xa đau lòng Tuổi già yếu lưng còng tóc bạc Bệnh tật càng xơ xác tấm thân Liễu nương một buổi thất thần Hồn bay phách lạc dương trần lìa xa Hai trẻ nhỏ cửa nhà đơn bạc Được họ hàng cô bác chăm nuôi Đọc kinh cầu nguyện không thôi Năm đời giữ đạo xa xôi Chúa trời. Ngũ Viên tức Ngũ Tử Tư . Truyền thuyết rằng Ngũ Viên và công tử Thắng sau khi ra khỏi nước Trịnh, Khi tới cửa quan giữa Ngô và Sở là Chiêu Quan, thì quan lại ở đây khám xét rất nghiêm ngặt. Ngũ Tử Tư lo lắng không ngủ được nên qua mấy đêm mà đầu tóc bạc trắng hết. May nhờ gặp được một người tốt là Đông Cao Công, đồng tình với Ngũ Tử Tư, cho Ngũ Tử Tư ở trong nhà mình. Đông Cao Công có một ngưòi bạn hình dáng giống Ngũ Tử Tư, liền nói người đó, giả làm Ngũ Tử Tư đi qua cửa quan. Lính gác cửa quan bắt giữ Ngũ Tử Tư giả, còn Ngũ Tử Tư thật thì nhờ đầu tóc bạc trắng, diện mạo thay đổi khó nhận ra được nên đã trà trộn qua được cửa quan. Ngũ Tử Tư sợ có quân đuổi nên đi rất gấp. trưốc mặt bỗng có con sông lớn chặn ngang. Trong lúc lo lắng, lại nhờ có một ông lão đánh cá chèo một con thuyền nhỏ đưa Ngũ Tử Tư qua sông. Qua khỏi sông, Ngũ Tử Tư vô cùng cảm kích, cởi thanh bảo kiếm đưa cho ông lão đánh cá, nói: -“Thanh bảo kiếm này là của vua Sở tặng cho ông nội tôi, giá trị tới trăm lạng vàng, xin biếu cụ để tỏ tấm lòng” Ông lão đánh cá nói: - “Để truy lùng tướng quân, vua Sở đã treo giải thưởng năm vạn thạch lương và tước vị đại phu cho người nào bắt được. Ta không tham giải thưởng và tước vị, lẽ nào lại muốn lấy bảo kiếm của tướng quân?” Ngũ Tử Tu vội thu lại bảo kiếm, sụp xuống lạy tạ rồi từ biệt ra đi. Ngũ Tử Tư đến nước Ngô bày mưu giúp công tử Quang giết được Ngô vương Liêu bạo ngược ham chơi. Công tử Quang gọi là Ngô vương Hạp Lư. Hạp Lư lên ngôi, phong Ngũ Tử Tư làm đại phu, giúp mình giải quyết việc lớn quốc gia. Lại sử dụng Tôn Vũ, một nhà quân sự lớn giỏi việc dùng binh. Ngô vương Hạp Lư bái Tôn Vũ làm đại tướng, Ngũ Tử Tư làm phó tướng, tự mình dẫn đại quân đánh Sở, liên tiếp thắng trận, khiến cho quân Sở tan tác, tiến thẳng tới Ánh đô. Lúc đó, Sở Bình vương đã chết, con là Sở Chiêu Vương trốn chạy. Đại thần nước sỏ là Thân Bao Tư từng là bạn thân của Ngũ Viên chạy sang nước Tần, xin vua Tần mang quân sang cứu. Tần Ai Công không đồng ý. Thân Bao Tư đứng ngoài cửa cung nước Tần gào khóc liền bảy ngày bảy đêm. Cuối cùng, Tần Ai Công động lòng thương, nói: -“Vua sở tuy bạo ngược vô đạo, nhưng có một người bầy tôi tốt như thế, thì sao ta có thể nhìn họ mất nước cho đành. Tần Ai Công cử quân cứu Sở, đánh bại quân Ngô. Ngô vương Hạp Lư liền rút quân về nước. Ngô vương Hạp Lư về đến nước Ngô, quy công đầu cho Tôn Vũ. Tôn Vũ không muốn làm quan liền đi ẩn cư. Ông để lại cuốn “Tôn Tử binh pháp”, là một trước tác quân sự kiệt xuất sớm nhất của Trung Quốc. Đoạn thơ này tôi mô tả về tình bạn rất đẹp của người theo đạo công giáo giữa Châu Kỳ và Hà Mậu. Khi Hà Mậu vắng nhà để lên núi cầu tiên hỏi chuyện đạo đơi thì Châu Kỳ ở gần đó đã chu cấp tiền bạc và lương thực cho Liễu Nương nuôi hai cháu gái. Đoạn thơ này được Thu Hà diễn ngâm nghe sẽ rất lâm ly. 23.3.2020 Lu Hà