Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 142

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 12 28, 2019.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Trung Hiếu Nghĩa Hiệp

    “ Video 10“


    “Ngao ngán thay ngút ngàn non nước

    Dòng sông xa ô thước phân vi

    Tần ngần kẻ ở người đi

    Máy trời ken két biết chi mà lần“


    Cảnh ngộ của Lục Vân Tiên thật là oan trái bi thảm. Lục Vân Tiên đang sung sức trên võ đài hạ gục mấy võ sĩ liền, nhưng khi đấu với Trịnh Hâm thì chàng bị ám khí phóng ra mà không biết, chỉ là thứ bột tro tóc đã sấy khô trộn với nước tiểu mủ cóc và nhựa cây xương rồng cực độc. Khi bụi bay vào mắt thì lại đúng lúc tiểu đồng kêu to nhà có biến... Lúc đó Lục Vân Tiên chỉ nghĩ tới mẹ mà không hề nghĩ tới bụi cát bay vào mắt, chỉ cho là sự ngẫu nhiên trùng hợp mà thôi. Chàng buộc phải dời xa trường thi cấp tốc trở lại quê nhà để hộ tang mẹ. Phong cảnh miêu tả trong thơ thật là ảm đạm dòng sông thì xa mênh mông, cánh chim quạ (ô thước) chia lìa. Ở Việt Nam khi thấy chim cú lợn, tiếng quạ kêu thường là điềm báo có người chết. Bạn bè cùng khóa thi chia ly, máy trời xích kêu ken két chỉ là lối thơ tượng trưng siêu hình mà tôi mô tả về định mệnh con người do tạo hoá xếp đặt.


    “Dây xích kéo dấn thân cát bụi

    Chốn kinh đô sầu tủi mù sương

    Bảng vàng chẳng thiết vấn vương

    Rầu lòng sĩ tử cố hương đợi chờ


    Lão chủ quán ngẩn ngơ nuối tiếc

    Nhành thiên hương cỏ biếc mây xanh

    Tài năng lỗi lạc cũng đành

    Tinh cha huyết mẹ sinh thành ra ta“


    Công lao đèn sách rùi mài kinh sử, không những chỉ là học vấn võ nghệ cũng rất tinh thông bỗng phút chốc tan thành mây khói, những người bạn tốt như Vương Tử Trực và cả ông chủ quán bán cơm cũng tiếc cho chàng Lục Vân Tiên bỗng dưng gặp phải đại nạn này. Sinh lão bệnh tử, mẹ già cao tuổi dù có chết, có buồn có khóc rồi cũng sẽ qua đi, chàng sẽ lấy lại tinh thần, nhưng tương lai có thể sẽ bị tàn lụi bởi đôi mắt, càng khóc càng dụi mắt thì bụi tóc càng chà xát đôi mắt của chàng, máu tươi chảy ra hòa lẫn nước mắt sẽ dẫn đến mù lòa. Ta chỉ còn biết tin vào lòng trời, Lục Vân Tiên cát tướng có quý nhân phù trợ may ra thoát khỏi kiếp nạn này.


    “Dù mưu chước ma tà hắc ám

    Xé mây đen chúng dám lại gần

    Trịnh Hâm giả bộ ân cần

    Khoa sau nhất định dành phần cho huynh


    Rồi sẽ có màn huỳnh trướng gấm

    Chức trạng nguyên có thấm vào đâu

    Thám hoa bảng nhãn đứng đầu

    Lâm môn song hỉ cô dâu thỏa lòng


    Tiên gạt đi trông mong chi nữa

    Cuộc đời này ý nghĩa gì đâu

    Than ôi bãi biển nương dâu

    Cù lao chín chữ dãi dầu muối sương“


    Cù lao chín chữ tôi xin tạm giải nghĩa: Sinh do cha mẹ đẻ ra, Cúc được nâng đỡ, Phủ là vỗ về vuốt ve, Súc là cho ăn bú mớm, Trưởng là nuôi dưỡng thể xác, Dục là giáo dưỡng tinh thần, Cố là trông xem, nhìn ngắm, Phục là quấn quít chăm lo săn sóc không rời tay, Phúc là bế bồng, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, sợ con bị ăn hiếp. Cách đây khoảng hơn 10 năm tôi hay làm thơ đường luật và thơ 7 chữ, 8 chữ hoặc 5 chữ. Nhưng mấy năm gần đây tôi say xưa hứng thú đặc biệt về hai thể lục bát và song thất lục bát. Giống như luyện môn hai môn phái võ thuật Cửu Âm Chân Kinh và Hàng Long Thập Bát Chưởng vậy.


    Quách Tĩnh là một trong những người từng sở hữu Cửu Âm Chân Kinh trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Nói về Cửu Âm Chân Kinh, võ sư Ngô Xuân Thi cho rằng:

    - "Thứ võ công này là óc sáng tạo, nhân cách hóa của một nhà văn viết tiểu thuyết. Nhưng theo tôi, trong thực tế nếu đạt được 1/1000 như vậy thì đã là sự cố gắng rất lớn. Trong võ thuật có ý-khí-lực. Công lực là thứ có thật do thể chất và do duyên của từng người tập luyện. Tôi lấy ví dụ, trên thực tế các cụ ta ngày xưa có thể nhảy lên mái nhà, đó là khinh công và là thứ hoàn toàn có thật do quá trình rèn luyện. Hay như võ tướng Mạc Đăng Dung khi xưa đánh giặc bằng cây đại đao nặng tới 36kg, bây giờ vẫn giữ trong bảo tàng của dòng họ Mạc. Đó là những thứ có thật. Một số công phu khác là có như Dịch Cân Kinh dùng để luyện gân cốt, Tẩy Tủy Kinh luyện khí hóa thần để sống trẻ, sống lâu, đó là thứ có thật”


    Bên cạnh Cửu âm Chân Kinh cùng với Đả cẩu bổng pháp, Hàng long thập bát chưởng được biết đến như là môn võ trấn phái của Cái bang. Đả cẩu bổng chỉ được truyền cho bang chủ Cái bang nhưng Hàng long thập bát chưởng thì lại đựơc lưu chuyền rộng rãi hơn. Tuy nhiên, phải là hàng tiền bối, lập được đại công thì mới được học nhưng cũng không đầy đủ, chỉ bang chủ mới được lãnh hội đủ bộ.


    Nhắc đến Hàng long thập bát chưởng hay giáng long thập bát chưởng có lẽ không ai là không biết đến ba đại cao thủ võ lâm: Kiều Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh. Hai trong ba người là bang chủ Cái bang, người còn lại thì lại là để tử chân truyền. Chúng ta đã biết sức mạnh Hàng long thập bát chưởng của Quách Tĩnh một đệ tử bất đắc dĩ của Hồng Thất Công.


    Giống như người ta luyện tập võ công, tôi cũng luyện về văn công. Tôi đã miệt mài luyện nhiều về lục bát và song thất lục bát, hai thể loại này so với thơ 7 chữ cách đây 10 năm thì nay đã cách xa nhau rất nhiều cả về lượng và chất. Có thể nói đã đến cảnh giới nội công khá thâm hậu về thơ lục bát và song thất lục bát. Kể từ sau năm 2014 trở lại nay thơ lục bát của tôi đã trau chuốt rất nhiều so với mốc thời gian 2013 trở về trước. Tôi còn phải cố gắng nhiều hơn nữa vì chữ quốc ngữ của ta mới có khoảng hơn một trăm năm nay thôi. So với chiều dài lịch sử văn chương của nhân loại như Hán văn, La Tinh văn, Anh văn, Pháp văn, Đức văn, Do Thái văn, thì Việt văn của chúng ta mới chỉ phôi thai. Vì chữ quốc ngữ ra đời quá muộn chỉ là do sự tình cờ của các giáo sĩ đạo công giáo mang đến mà thôi. Lục Bát mới chỉ là bước đầu chạng vạng về chất.


    Tiện đây xin chép ra luôn để các bạn cùng nghiên cứu thẩm định. Thật ra cái việc làm thơ của tôi nhiều người tỏ ra ghen tỵ bàn luận linh tinh, họ giả vờ thân thiện rồi nhận xét lếu láo tôi khinh bỉ những loại người bất tài tiểu nhân đó nào là Lu Hà làm văn hay hơn làm thơ, rồi có kẻ Lu Hà làm thơ trào phúng thơ chửi đời hay hơn thơ tình, nào là Lu Hà làm thơ gì mà dài lê thê thế?. Vì vậy tôi rất hiểu cái bụng dạ hẹp hòi tiểu nhân của thiên hạ nên mới lập ra chùm thơ viết dài gồm những bài trên 24 câu trở lên, và chùm thơ viết ngắn mỗi bài dưới 22 câu trở xuống để khóa những cái miệng thối đó đi. Còn dài dằng dặc thì gọi là trường ca. Đầu óc của một thi nhân thật sự không thể dễ đùa cợt được, nói thơm nói thối giả vờ khen đểu rồi lại chê bai qua sao cặp mắt có thể gọi là tinh đời của tôi? Vừa mở miệng ra người ta đã biết tỏng mình là ai rồi, vì thi nhân cũng giống như một bác sĩ tâm thần, nghiên cứu về tâm hồn, linh cảm, khám phá ra những uẩn khúc thớ lợ và hiểu mưu mô thủ đoạn vặt của phường giá áo túi cơm háo danh hãm tài vậy. Nói chuyện được với tôi không phải dễ kể cả các bà các cô xinh đẹp.


    Công Cha Nghĩa Mẹ

    " Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, nuôi con chẳng quản sớm chiều, tình cha nghĩa mẹ dạt dào biển khơi!“



    CÔNG đức sâu dày ơn mẹ cha

    CHA truyền nòi giống cuả ngàn xưa

    NHƯ hoa vương nhụy đời thơm trái

    NÚI vọng tình thâm nặng bốn muà


    THÁI cổ lưu truyền chuyện mẫu thân

    SƠN cao nuí thẳm gió non ngàn

    NGHià đời mẹ gửi trong dòng suối

    MẸ ở lòng con khắp thế gian


    NHƯ thể sinh ra là chúng nhân

    NƯỚC non sông nuí cả giang san

    TRONG như nước suối soi lòng mẹ

    NGUỒN sữa ơn đời bao thế gian


    CHẢY khắp mọi miền sông nước xa

    RA đi biển mặn nỗi mong nhà

    NUÔI con chiu chắt từng hạt muối

    CON sẽ trở về bên mẹ cha


    CHẲNG biết giờ này mẹ ở đâu

    QUẢN bao gió táp với mưa sa

    SỚM khuya tần tảo bao mong đợi

    CHIỀU lạnh Vu Lan lại nhớ nhà


    TÌNH thương xưa ngọn sóng mênh mông

    CHA vẫn bền gan chẳng nản lòng

    NGHIÃ nặng cưu mang từng hạt thóc

    MẸ là sông nước của quê hương


    DẠT sóng biển khơi đời viễn dương

    DÀO nào ngăn cản tấm lòng thương

    BIỂN nào chia cắt tình non nước

    KHƠI dậy hồn thơ nỗi nhớ mong!


    Mùa Vu Lan 2008 Lu Hà


    Cảm Khái Về Giọng Ngâm Thơ

    Tặng Trần Thu Hà


    Thơ em ngâm chứa chan lòng mẹ

    Tình của anh thỏ thẻ cái oanh

    Công cha kết cỏ ngậm vành

    Cù lao chín chữ sáng danh đất trời


    Mẹ sinh con phải thời ly loạn

    Đôi vai gày lận đận sớm khuya

    Nhọc nhằn gối lệ đầm đià

    Quản chi nắng rát bên bìa đồi hoang


    Rau sắn đắng khoai lang củ sặc

    Bát canh cua đĩa lạc muối vừng

    Gà con chiêm chiếp mẹ mừng

    Nhà tranh vách nứa mưa rừng gió đông


    Mẹ thương con mẹ bồng mẹ bế

    Khói lam chiều cô lẻ sương rơi

    Ba năm nhũ bộ nên người

    Miệng ăn cơm búng nụ cười lớn khôn


    Ngày mai nhé tâm hồn thi sĩ

    Nửa hồn mây thủ thỉ mẹ ơi!

    Cung đàn dìu dặt chơi vơi

    Có nghe tiếng gọi lưng trời hạc bay…!


    29.12.2016 Lu Hà



    Thương Mẹ

    Tri ân Thu Hà ngâm thơ, cảm dịch thơ Giang Hoa: Mẹ Tôi


    Mẹ như trái chín hương rễ rụng

    Chuối trên cây con đứng thương hoài

    Lúc mừng ánh nắng ban mai

    Khi lo ngọn gió phôi phai úa màu


    Mái tóc mẹ trên đầu bạc trắng

    Từng sợi buồn cay đắng xót xa

    Một sương hai nắng cùng cha

    Tay bồng tay bế sơn hà ngược xuôi


    Chín đứa con nổi trôi sóng gió

    Tám muơi hai biết tỏ chăng ai

    Ngậm cười chín suối tuyền đài

    Hồn cha phiêu lãng canh dài đêm thâu


    Trăng cổ độ trâm bầu rặng liễu

    Dạ hoài lang yểu điệu một thời

    Mẹ tôi xinh xắn nhất đời

    Dáng cô thôn nữ nụ cười xa xăm


    Tình nghĩa để dâu tằm nhả sợi

    Tấm lụa đào vời vợi thanh tao

    Cù lao chín chữ nghẹn ngào

    Công ơn trời biển con nào dám quên


    Đàn con cháu hồn nhiên phúc đức

    Lục bát thơ thao thức ca ngâm

    Có người viễn xứ âm thầm

    Nửa vòng trái đất tình thâm giống nòi


    Thơ song thất mặn mòi lục bát

    Vần theo vần dìu dặt cung đàn

    Tuôn châu nhả ngọc nồng nàn

    Hằng Nga thỏ thẻ trăng ngàn ngẩn ngơ!


    27.12.2016 Lu Hà



    “Ông lão càng thấy thương quá đỗi

    Đấng anh hùng có tội gì đâu

    Tai ương dồn dập lên đầu

    Chất chồng đè nặng hiểm sâu khó lường


    Lão sinh nghi bất thường chi đó

    Mới chạy theo xin tỏ đôi lời

    Từ nay sẽ được thảnh thơi

    Thị phi xa lánh thói đời bon chen


    Hết kẻ ghét cựa kèn đấu đá

    Sớm hay chiều băng giá hoài vương

    Mấy thang thuốc để dọc đường

    Phòng thân lúc đói chán chường cũng no“


    Ông lão quán cơm là một kẻ sĩ am hiểu thời thế, kiến văn uyên bác nhưng vì bất đắc dĩ phải mở quán kiếm sống qua ngày. Ông cảm thấy chuyện đau mắt bất thình lình của Lục Vân Tiên có gì đó rất bất thường, dù có thương mẹ khóc lóc đến đâu mà mới chỉ một hai ngày mà mắt đã tứa máu ra.Nên ông chạy theo đưa mấy thang thuốc phòng khi nguy cấp cũng có khi dùng đến.


    “Chưa từng trải đắn đo cân nhắc

    Mới cúi đầu ngơ ngác cám ơn

    Não nùng sùi sụt đòi cơn

    Nhớ câu dưỡng dục chẳng sờn lòng son


    Tiên càng khóc bụi mòn đôi mắt

    Như gai cào đau rát con ngươi

    Trịnh Hâm hiểm độc hại người

    Đi hơn một tháng tả tơi thân gày


    Hỏi tiểu đồng ban ngày hay tối

    Mắt đã mù lần lối đường đi

    Vẳng nghe như tiếng chim di

    Hàng cây xào xạc thầm thì gió đông“


    28.12.2019 Lu Hà
     
    Chỉnh sửa cuối: Thg 12 28, 2019

Chia sẻ trang này

Share