Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 103

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 12 3, 2019.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Tài Mệnh Tương Đố

    “Video 47“


    “Nghe nàng nói trước sau lân lý

    Giữa công đường ý vị tương tri

    Ngậm ngùi thương xót giải vi

    Lầu xanh tránh tiếng thị phi búa rìu


    Sinh chút phận hẩm hiu bèo bọt

    Theo phụ thân chau chuốt bút nghiên

    Gạn gùng cho bớt sầu miên

    Tay nghề viết thử một thiên trình làng“


    Thúy Kiều quả thật cũng là một nhà hùng biện, nói năng có chấm có dứt mạch lạc khúc triết. Mới tí tuổi mà uyên bác vô cùng làm cho quan tri phủ tưởng như mặt sắt đen xì cũng phải xúc động. Thúc Sinh thấy tình hình bớt căng thẳng mới bồi thêm về tài thơ phú của Kiều. Quan tri phủ đồng ý ngay.


    “Nàng lĩnh hội nhẹ nhàng múa bút

    Nét rồng tiên vun vút gió bay

    Uốn lưng trình trước án ngay

    Quan trên tấm tắc khen hay tuyệt vời


    Thơ đường luật về nơi Lý Bạch

    Đỗ Phủ nào dám thách đố ai?

    Bâng khuâng yểu điệu gót hài

    Ngàn năm lưu luyến trang đài quỳnh giao


    Tài sắc ấy đời sao đen bạc

    Kiếp phong trần trôi lạc tới đây

    Tao nhân mặc khách ngất ngây

    Châu Trần duyên ấy vui vầy thì hơn“


    Ở một thôn thuộc huyện Phong tỉnh Giang Tô, ngày xưa kia có hai họ Châu và Trần đời đời kết làm thông gia với nhau . Do đó thôn ấy được đặt tên là thôn Châu Trần. Về sau người ta dùng hai tiếng Châu Trần để chỉ những cuộc hôn nhân tốt đẹp, vợ chồng xứng đôi vừa lứa .


    Nhà thơ Bạch Cư Dị thời Đường có những câu thơ đẹp:


    ”Từ Châu cố Phong huyện

    Hữu thôn viết Châu Trần

    Nhất thôn duy lưỡng tính

    Thế thế vi hôn nhân”.


    Quan tri phủ Lâm Truy cũng là người có học vấn uyên thâm, từng dùi mài kinh sử, đọc sách thánh hiền, từng vắt óc làm thơ, đi thi và đỗ đạt ra làm quan. Ông rất ngưỡng mộ thầm yêu tâm hồn nàng Kiều nên mới phán:


    “Thôi đừng chuốc oán hờn cừu hận

    Nên thương người lận đận long đong

    Bất bình dẹp bỏ là xong

    Bên tình bên lý mới mong cầu hòa


    Kiều lạy tạ nhạt nhòa khóe hạnh

    Tiên sinh còn bức bách chi con

    Xét trong gia đạo vuông tròn

    Trọng tài mến đức vàng son nào bằng


    Lệnh truyền kíp hoa đăng kiệu rước

    Thẳng một lèo đến trước hiên nhà

    Huệ lan sực nức vào ra

    Thúc ông cũng hết phong ba sóng dồi


    Đêm nguyên tiêu bồi hồi hàn thực

    Thúc gia trang rạo rực yến anh

    Yếm đào xao xuyến thâu canh

    Cờ trưa điểm nước long lanh mắt huyền“


    Tàu và Việt Nam hay các nước vùng đông nam châu Á có tục lệ vui tết Nguyên Tiêu còn gọi là tết Thượng Nguyên, hay tết Trạng nguyên. Ngày xưa nhà vua hội họp các ông quan Trạng hay các vị văn nhân đỗ Thám Hoa Bảng Nhãn vào chầu, để thết yến tiệc và mời vào vườn Thượng Uyển thăm hoa, ngắm cảnh phong cảnh và làm thơ.

    Ngoài ra còn những tập tục khác như cúng tế cầu an cầu phước, ăn bánh trôi, thi đoán hình thù trên lồng đèn, ngâm thơ, ghi những câu ước nguyện của mình vào đèn lồng và thả bay lên trời. Nhiều người còn coi đây là mùa tình yêu tương tự như lễ Thất Tịch: Nguyên tiêu chi dạ hoa lộng nguyệt, mùa trăng tròn lung linh sắc màu hoa đăng rực rỡ cũng là dịp Ngưu Lang Chức Nữ gặp gỡ trên bờ sông Ngân Hà.

    Hàn thực là gì? Cũng theo tích Tàu viết: Ðời Xuân Thu, tại nước Tấn xảy ra biến loạn, Công tử Trùng Nhĩ con của Tấn Hiến công phải làm thân lưu vong tìm đường phục quốc. Gian nan đói khát trên đường là điều không sao tránh khỏi Trùng Nhĩ bị đói lả. Trong đám chạykẻ sĩ theo chân ông có Giới Tử Thôi là người hầu cận, xót xa, đem dâng cho ông bát cháo bát cháo thịt. Trùng Nhĩ, khỏe sau khi ăn xong mới hỏi: "Nhà ngươi tìm đâu ra thịt ở nơi vắng vẻ hiu quanh như thế này?". Giới Tử Thôi thưa: "Đó là cháo nấu từ thịt đùi của tôi. Tôi nghe rằng kẻ hiếu tử bỏ thân thờ cha mẹ, bề tôi trung bỏ thân để thờ vua . Việc này người dân trong nước loạn ai cũng đều làm như thế cả, đâu phải chỉ riêng tôi. Công tử đừng bận tâm, hãy để tâm trí lo việc lớn .Trùng Nhĩ ứa nước mắt, nói: "Ơn này, ta mãi mãi không bao giờ quên". Sau nàyTrùng Nhĩ phục quốc thành công. Ông hào phóng ban thưởng cho mọi người có công. Khi ban thưởng lắm tranh ăn, kể công, cò kè bớt một thêm hai. Riêng Giới Tử Thôi chán nản và lặng lẽ rút lui. Ông lui về nhà phụng dưỡng mẹ già. Ông sống bằng nghề may vá giày. Có người hàng xóm biết công lao của Giới Tử Thôi qua nhà kể những gì mắt thấy tai nghe cho mẹ ông nghe. Thấy con khổ, một hôm bà mẹ nói với con" sao con không xin Chúa Công ban cho ít lộc để cho con được bớt khổ có hay hơn không?". Giới Tử Thôi thưa: "Tấn Hiến công có nhiều con, duy chỉ có Chúa Công là người hiền hơn cả. Huệ công và Hoài công không bằng được. Chúa công nay được hưởng phần là lẽ trời đất. Đâu có gì lạ mẹ ơi. Việc phục quốc là trách nhiệm tự nhiên của mọi người dân. Con thà vá giày nuôi mẹ như thế mà tâm con được yên vui. Mẹ thấy sao ?". Người mẹ suy nghĩ hồi lâu:

    -“Con ta làngười liêm sỉ bấy lâu nay mà ta đâu hay . Con ta đã là người như thế, lẽ nào ta là mẹ sinh ra nó mà không làm được điều liêm sĩ hơn sao? Nay ta thật sự muốn cùng con tìm chỗ ẩn thân, lòng mẹ con ta từ nay sẽ an ổn" .

    Nói rồi hai mẹ con dắt nhau vào núi, hái cây trái rừng mà sống qua ngày. Người hàng xóm vốn kính nể mẹ con họ, nay quay lại, thấy mẹ con họ đã lặng lẽ ra đi. Ông đã tìm mọi cách thông báo cho nhà vua biết là về việc bỏ sót họ Giới. Nhà vua vội vã cho người đi tìm lại ân nhân mình. Nhưng Giới Tử Thôi vẫn biệt tăm. Biết Giới Tử Thôi là người con hiếu. Vua bèn nghĩ đến kế, đốt rừng để nóng quá ắt phải chạy ra như kiểu hun chuột. Khi tàn lửa, nhà vua tận mắt thấy hai mẹ con họ ôm nhau mà chết khô như đống than. Vua kêu trời và rơi lệ. Vua truyền lệnh, kể từ ngày nàỳ, lấy đây là ngày giỗ bậc hi ền sĩ mọi nhà đều không được đốt lửa, cùng ăn thức ăn nguội để tỏ lòng thương tiếc, tôn kính hai người quốc sĩ. Vua ban nghiêm lệnh, vào ngày này các nơi phải tổ chức vui chơi vào ban ngày để giúp mọi người luôn tưởng nhớ người xưa mà bắt chước, học tập những điều đạo đức tối thiểu trong đạo làm người.


    Sau khi làm lễ thành hôn, nàng Kiều nghĩ sâu xa, trước sau vợ cả sẽ biết chuyện mới khuyên Thúc Sinh trở lại Vô Tích quê nhà và kể hết sự tình.


    ”Buổi thanh vắng thuyền quyên thỏ thẻ

    Đã xa nhà ngày lẻ tháng dư

    Riêng tư độ lượng nhân từ

    Chàng nên xem xét thực hư thế nào?


    Nhạt tao khang ngọt ngào cát lũy

    Vẫn im hơi kẻo lụy vào thân

    Tránh sao điều tiếng xa gần

    Xin chàng lo liệu tính dần bài ra


    Hãy trở lại quê nhà thăm viếng

    Đẹp ý người đánh tiếng xem sao

    Lữa lần dù có bề nào

    Trở tay không kịp biển gào sóng xa“


    3.12.2019 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share