Tác giả và Tác Phẩm

Chinh Nguyên : Những lời chia tay đặc biệt với thi sĩ chưởng môn Hà Thượng Nhân

Khóc thương Thi Sĩ Hà Thượng Nhân
Ngang Cung thuở  ấy cây đàn
Chiều nay im tiếng bang hoàng đứt dây
Xôn xao bốn biển trời mây
Bao thi nhân khóc thương dây lìa đàn
Đại Lãn


 
 Đồng Thành Kính Phân Ưu

Tin Buồn!
Thi Sĩ Hà Thượng Nhân Vừa Qua Đời! (Tổng Hợp)
) 

ha thuong nhan 2.jpg

 

Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật nước nhà trước 75 nói chung, và ra đến hải ngoại, nhất là tại vùng Thung Lũng Hoa Vàng nói riêng.Chúng ta may mắn có một “Cổ Thụ”  về thơ, đó là:
Thi Sĩ  Hà Thượng Nhân, giới làm thơ thân mật còn gọi “ Cụ Hà Chưởng Môn” Cụ vừa qua đời lúc 7 giờ tối Thứ Ba ngày 11 tháng 10 năm 2011.
Tại bịnh viện Regional Medical Center, tại san Jose.
Sự ra đi của Cụ là một mất mát lớn trong sinh hoạt nghệ thuật về bộ môn thơ.
Vĩnh biệt Cụ Thi Sĩ hiền hòa, nói ra thơ, thở ra thơ, những ngày cuối đời vẫn còn ngồi trên xe lăn, tham gia các sinh hoạt ra mắt thơ văn.
Một đời tận tụy cho văn chương, chữ nghĩa!

Thành Kính Phân Ưu.
Lê Văn Hải.

 

thuong tiec.jpg

 

hilhilhlhilhlhll.png

 

Hà Thượng Nhân, nhà thơ lớn của Việt Nam  

Nguyễn Liệu

Tại tòa soạn báo Sống, năm 196o, anh Chu Tử giới thiệu :
“ Anh Hà thượng Nhân, đây, anh Nguyễn Liệu Quảng Ngãi.”
Tôi vụt đứng dậy đầy sự kính trọng, ngạc nhiên :
“ Kính chào ông, tôi được biết quí danh trên thi đàn”
– Chỗ anh em mà, tôi có nghe anh Chu Tử nói nhiều về anh. Tôi rất đồng ý cách diệt cộng sản của anh và nhất là trị bọn tham nhũng.
Từ đó chúng tôi gọi nhau là anh em. Hà thượng Nhân hơn tôi 12 tuổi, tuổi ông anh cả của tôi. Dáng người cao to, nước da hau hau đỏ, trông rất khỏe mạnh. Năm ấy anh cấp bậc trung tá hình như chủ nhiệm tờ báo quân đội, tờ Tiền Tuyến. Trong lúc nói đủ thứ chuyện, tôi nói : Chánh quyền miền Nam lâu nay nổi tiếng dùng người trật lất, theo tôi chỉ có dùng anh Hà thượng Nhân chủ nhiệm tờ báo Tiền Tuyến là trúng nhất, chính anh đã làm cho tờ báo tươi trẻ, giá trị lên cao.”
Trước đó tôi đã bái phục thi sĩ Hà Thượng Nhân ở mục “ Đàn ngang cung” trong nhật báo Tự Do của giáo sư Phạm việt Tuyền.
Mỗi buổi sáng chúng tôi chụp lấy tờ Tự Do trước hết xem bài thơ trong Đàn ngang cung của anh. Kinh khủng thật, mỗi ngày một bài thơ châm biếm đả kích một cách tế nhị có khi khá kín đáo.

Trong bài này tôi sẽ trình bày ba mục :
1- Con người Hà thượng Nhân
2- Thơ Hà thượng Nhân
3- Ý thức chánh trị của Hà thượng Nhân

Hà Thượng Nhân sinh năm 1920, tên thật là Phạm xuân Ninh. Quê ở làng Hà Thượng quận Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa.
Theo nhà văn Chu Tử cho tôi biết, Hà Thượng Nhân rất thông minh, trí nhớ rất tốt, nên anh thuộc thơ rất nhiều, nhất là thơ cổ Trung hoa và thơ Pháp. Có vốn tiếng Pháp vào loại khá và chữ Nho cũng vào loại khá nên tạo cho Hà Thượng Nhân sự hiểu biết về Đông Tây một cách sâu sắc. Cũng theo Chu Tử, họ Hà rất xem nhẹ công danh nên đã bỏ qua những dịp tốt để tham gia chánh quyền nhất là khi cụ Ngô đình Diệm chấp chính. Qua nhiều lần nói chuyện tâm tình với Hà thượng Nhân tôi thấy lời nhận xét của Chu Tử rất chính xác.
Ban đầu tôi nghe bút hiệu Hà thượng Nhân hơi khó chịu, cứ nghĩ rằng con người này có vẻ tự hào cao ngạo, nhưng sau khi biết lấy tên làng làm bút hiệu, nên tôi xua đuổi hình ảnh sai lầm về người thi sĩ đáng quí này.
Chẳng những không cần địa vị trong xã hội, Hà thượng Nhân cũng không cần danh trong văn thi đàn. Anh tâm sự với tôi : “ Tôi con nhà có điều kiện nên đi học thế thôi, và tôi cũng không mê bằng cấp nên tôi không tiếp tục ra Hà nội học. Thật sự tôi thích sống cuộc sống giản dị ở nhà quê thanh bình, làm thơ, vui cảnh sông núi thiên nhiên, không thích cảnh phồn hoa đô thị. Đi lính với tôi là một bổn phận công dân thời chiến tranh thế thôi. Nhìn lại chúng ta thấy điều đó. Làm hàng ngàn hàng vạn bài thơ nhưng có bao giờ thi sĩ cho in tập thơ, anh chỉ đăng trong các báo mà thôi. Khi anh làm chủ nhiệm tờ Tiền Tuyến anh có nhiều điều kiện in tập thơ, nhưng anh không in. Sau này lúc sang Hoa Kỳ có dịp trong bữa cơm thân mật ở nhà tôi có anh em Thi văn Cội nguồn, có thi sĩ Võ thạnh Văn, có nhà báo Thanh thương Hoàng tôi đề nghị cho in tất cả những bài thơ của anh, việc này không khó khăn ở đây, nhưng anh một mực chối từ. Tánh khiêm tốn, không bon chen danh vọng trên cuộc đời, kể cả danh vọng trên văn thi đàn là danh vọng chính đáng, anh cũng không cần, đó là một đặc tính của Hà thượng Nhân.
Một đặc tính nữa của Hà thượng Nhân, anh biết rành rọt các nhân vật có tên tuổi về văn học về chính trị thời 1940 trở về sau. Tôi là người thường “ khai thác” Hà thượng Nhân ở điểm này. Mỗi khi hỏi về người nào anh cho biết một cách chi tiết rành mạch về con người đó, những điểm đặc biệt về nhân vật đó. Nhờ vậy tôi biết nhiều về Phạm Quỳnh, Nguyễn tiến Lãng, biết về văn hào Nhất Linh và nhóm Tự Lực, về Trương Tửu Nguyễn bách Khoa, về Đặng thái Mai về Hồ Dzếnh về ….Rất nhiều, mỗi khi hỏi nhân vật Bắc Hà là lập tức anh cho biết một cách tường tận. Tôi có thể nói anh là cuốn “ tự điển sống”
Một điều đặc biệt nữa, Hà thượng Nhân xuất khẩu thành thi.
Nói đến làm thơ nhanh người đời thường nhắc đến Tào Thực (192-232 ), em của Tào Phi, con của Tào Tháo. Chuyện rằng Tào Tháo xây xong Đồng Tước đài làm lễ khánh thành bảo các con làm thơ về ngôi đài này. Năm ấy Tào Thực mới 10 tuổi, viết bài phú “ Đồng Tước phú” Tào Tháo đọc bài phú của đứa con 10 tuổi vô cùng khen ngợi tài văn chương của con, đồng thời lo ngại cho con sau này vì trong bài phú có ý cao ngạo sẽ vượt cha sau này. Tào Phi lên ngôi vua. Tào Thực bất mãn. Tào phi xử chém Tào Thực. Người mẹ khóc xin tha cho Tào Thực. Tào Phi vâng theo lời mẹ, nhưng bắt Tào Thực trình diện và bảo “ Đi 7 bước phải làm một bài thơ ( thất bộ thành thi), thì mới được tha tội chết” Tào Phi ra đề bài thơ “ Huynh đệ”.
Đi đúng 7 bước Tào Thực đọc :
/Chử đậu trì tác canh
Lộc thị dĩ vi trấp
Cơ tại phủ bá nhiên
Đậu tại phủ trung khấp
Bản tự đồng căn sinh
Tương tiễn hà thái cấp

“ Nấu đậu để làm canh
Hạt bỏ vào nồi nấu
Cành ở dưới mà đun
Đậu ở trong nồi khóc
Sinh ra từ một gốc
Sao nở đốt thiêu nhau.

Tào Phi nghe buồn buồn muốn khóc liền tha chết cho Tào Thực.
Câu chuyện “ thất bộ thành thi” của Tào Thực nghe lý thú thật, nhưng chuyện xưa quá không biết hư thật như thế nào, nhưng chuyện làm thơ nhanh, chuyện xuất khẩu thành thi của Hà thượng Nhân, thì rất nhiều người hiện nay biết điều đó. Và chính thi nhân cũng xác nhận điều đó :
Hà Thượng Nhân kể cho tôi và một số anh em nghe chuyện anh viết hàng ngàn câu thơ chỉ trong vài giờ đồng hồ. Gần ngày Giáng sinh khi ở Mỹ, Hà thượng Nhân nhận nhiều thiệp chúc mừng Giáng sinh của bạn bè của người thân. Hà phu nhân cấp tốc đi mua thiệp để gửi chúc mừng phúc đáp lại, nhưng cận ngày qúa rồi gửi không kịp. Thi sĩ cười bảo vợ “ Bà đem giấy bút ra bàn đây cho tui và đem số thiệp nhận được ra đây để tôi viết mỗi người ít câu thơ chúc mừng họ rồi khi nào gửi cũng được.”
Nhấp ly rượu nho Napa anh viết liên tục cho từng người mỗi người một nội dung khác nhau và mỗi người trên dưới hăm lăm câu. Anh cười nói với chúng tôi :
“ Suốt hai tiếng đồng hồ buổi sáng đó tôi viết trên dưới hai ngàn câu thơ”
Tại hạ chắp hai tay bái phục ! bái phục ! Suốt đời tại hạ không viết nổi một câu thơ thế mà Hà tiên sinh viết một hơi hai nghìn câu trong 120 phút ! Tại hạ nghĩ rằng cho đến Tào Thực cho đến Lamartine nổi tiếng là viết nhanh viết nhiều cũng phải bái phục thi bá Hà chưỡng môn.
Còn nữa, tôi thường tổ chức những bữa tiệc “ Rượu thơ” mời những anh em thi sĩ quen biết đến dự, cố nhiên Hà chưởng môn làm chủ tọa các bữa tiệc đó. Đặc biệt những bữa “uống rượu dưới dàng hoa tím”, nhất là đêm đón tiếp nhà văn lão thành Thinh Quang tại nhà tôi mà tôi gọi là “ Đêm Tắm rượu”. Đêm ấy trên bốn chục anh chị em văn thi sĩ uống rượu một cách sảng khoái. Thi sĩ Hà thượng Nhân bảo đem giấy bút ra và ghi tên các người hiện diện để thi sĩ viết một bài thơ mỗi người hai câu. Hà thượng Nhân đúng là người nói thành thơ, viết thành thơ. Tôi có cảm tưởng “ cơ thể của anh làm bằng chất thơ”.
Tôi xin kể lại những kỷ niệm nho nhỏ với thi sĩ họ Hà mà tôi chưa quên.
Trung tá Phạm xuân Ninh bút hiệu Hà thượng Nhân làm trưởng ban chấm giải thơ của tổng thống Nguyễn văn Thiệu, ( đầu thập kỹ 70 ). Anh kể lại, suốt ba tháng trời đọc hàng mấy chục tập thơ rồi loại dần loại dần. Năm vị trong ban giám khảo mà Hà chưởng môn là trưởng ban, gặp khó khăn khi còn 5 tập chót, và nhất là còn hai tập chót. Anh nói với tôi và Chu Tử :
“ Nếu tập hai mà bằng tập 1 của Tạ Ký, hoặc kém chút ít, tôi cũng có thể làm cho “ lui” ( hắn ) vừa lòng, đằng này nó tệ quá so với tập 1, tập “Sầu ở lại” của Tạ Ký nên cả 5 anh em trong ban giám khảo đồng ý quyết định làm biên bản kết thúc cuộc thi, và tập thơ của Tạ Ký đứng nhất. Chúng tôi cấp tốc gửi biên bản vào phủ tổng thống để cho bọn nó hết chạy thuốc chữa hết quấy rầy tôi. Tôi ngắt lời :
“ Trong nhà binh anh là trung tá không sợ các anh tướng ảnh trù ẻo à ?”
Chu Tử trả lời : “ Anh Ninh cọp ảnh đ. sợ, năm 52 (1952) ảnh cải với thằng chó gì làm liên khu trưởng liên khu Bốn, rồi anh bỏ về thành, về Hà nội.”
Chợ Đũi. ….. “ Thà bắt chước ta ngồi chợ Đũi. Uống năm ba chén cho qua ngày. Không tiền kêu chủ ra ghi sổ. Thằng nào trả hộ lại càng hay..( thơ Tạ Ký ). Sau khi chấm thi thơ Hà Thượng Nhân mới nhận ra thiên tài thơ của Tạ Ký, và từ đó ít nhất mỗi tuần vài lần ban đêm ghé chợ Đũi uống rượu với Tạ Ký, uống với chúng tôi. Vào những năm 70 anh vừa trên 50 sức còn đang độ khỏe. Chúng tôi dưới 40 nhưng uống không bằng anh. Có hai lần uống với anh tôi không bao giờ quên được. Chu Tử, anh, Tạ Ký và tôi uống tới gần mười hai giờ khuya. Tôi say quá không còn biết gì nữa. Tôi đứng dậy bước ra đại ngoài lộ. Xe hơi thắng gấp sợ đạp người chết, tôi liền kéo cửa một chiếc taxi leo vào, xe chạy.
Ba người còn trong quán mừng vì tôi thoát khỏi tai nạn xe chen chúc trên lộ, nhưng lại lo cho tôi không biết tôi có nhớ đường về nhà ? Tôi cũng không hiểu tại sao tối đó tôi về được nhà ông anh tôi cách 45 phút xe. Tôi vào nhà, mệt quá nhưng vẫn cố gắng ngồi với ông anh đang chờ tôi về uống với anh. Một lúc sau có tiếng gõ cửa, thì ra Hà Thượng Nhân, Chu Tử, Tạ Ký tìm đến nhà anh tôi để xem thử tôi có về hay lạc trong thành phố ban đêm. Cử chỉ đó, hình ảnh đó làm cho tôi quí mến ba người bạn đàn anh ưu ái đến tôi.
Đoạn trường Vô Thanh. Khi nhà thơ Phạm Thiên Thư cho ra cuốn “ Đoạn Trường Vô Thanh”, được độc giả hoan nghênh, báo chí ca tụng thiên tài tác giả Động Hoa Vàng.
Cũng một buổi tối tại chợ Đũi, Tạ Ký, Chu tử, Hà Thượng Nhân và tôi uống rượu bàn đến cuốn Đoạn trường Vô Thanh. Tạ Ký và Hà thượng Nhân một phe, khen ngợi cuốn tiểu thuyết thơ xuất sắc n&agr
ave;y. Tôi hoàn toàn chống lại. Chu Tử làm trọng tài, chỉ cười không ý kiến. Uống nhiều quá, men rượu bừng bừng trong người, tôi loạng choạng có khi không biết mình nói cái gì. Theo tôi, viết với cái đề sách Đoạn trường vô thanh là xúc phạm đến nhà thơ vĩ đại của Việt Nam, Nguyễn Du. Tại sao lại viết nối tiếp truyện Kiều, tại sao phải vin vào truyện Kiều để dựa vào đó tạo nên danh tiếng, thế là một sự xúc phạm một nhà thơ vô cùng kính trọng của dân tộc Việt Nam. Tạ Ký và Hà thượng Nhân bài bác ý “ chủ quan hẹp hòi phản nghệ thuật của tôi”. Chúng tôi cải với nhau dữ dội. Và tôi bướng bỉnh không chịu nhượng bộ hai nhà thơ có đủ tư cách phê phán một tập thơ hơn tôi.
Sáng hôm sau trên tờ Sống, Chu tử thả trong “ Ao thả vịt” với tiêu đề : “ Hà thượng Nhân Nguyễn Liệu suýt huýnh lộn ở chợ Đũi vì Đoạn Trường Vô Thanh” rồi với giọng hài hước anh thuật lại chuyện vừa xảy ra khi đêm.
“ Ao thả vịt” là mục báo ăn khách nhất của Chu Tử. Rất nhiều người thích đọc đoạn văn hài hước châm biến kín hở một cách duyên dáng tài tình của Chu tử. Sáng ngày hôm sau đọc mục “ Ao thả vịt” tôi lạnh người, cấp tốc đi gặp Chu Tử : “ Anh viết như thế chết tôi rồi, Sài gòn thì không sao, chứ ngoài quê tôi đọc mục Ao thả vịt sáng nay thì họ quan niệm tôi uống rượu bê tha cải lộn đánh lộn thì bỏ mẹ tôi” Chu Tử cười khà khà : “ Anh mà sợ cái đ. gì !”. Tôi gặp anh Hà thượng Nhân để xin lỗi vì say quá nên có thể vô lễ với anh. Hà thượng Nhân cười bảo ; “ Tôi thích những người thẳng thắn và bàn cải quyết liệt không khoan nhượng như anh.”
2. Thơ của Hà Thượng Nhân.
Theo tôi có lẽ thi sĩ Hà thượng Nhân là người làm thơ nhiều nhất. Từ 14 tuổi anh đã biết làm thơ. Trước 1945 anh bắt đầu làm thơ. Trong kháng chiến anh làm thơ nhiều. Thời quốc gia ở miền Nam anh làm thơ rất nhiều, riêng tờ nhật báo Tư Do mỗi ngày đăng thơ anh một bài. Anh có hai ba bút hiệu và cùng một lúc viết cho ba bốn tờ báo. Trong tù anh làm thơ, anh viết một bài trường thiên tự so sánh cuộc đời trong tù của mình với nỗi buồn của Bạch Cư Dị khi bị đi đày làm Tư mã Giang Châu. Ra tù, sống ở Mỹ anh làm thơ đến hiện nay trên 90 tuổi nằm một chỗ …..vẫn làm thơ.!
Hà Thượng Nhân làm đủ loại thơ, lúc còn rất trẻ anh đã chuyên Đường Thi
Người ta bảo khi vào Huế trong một cuộc chơi thơ, anh có ứng khẩu một bài thơ vịnh
“ trăng thu” đươc cụ Ưng Bình chấm là hay nhất và khen:
“Trăm mặt thẹn thua chàng tuổi trẻ
“Một bài cũng đủ gọi Thi-ông.”

Đặc tính thơ của Hà Thượng Nhân là rất giản dị, dễ hiểu, không cầu kỳ gọt đẽo, không khoa trương màu sắc triết lý, siêu thực. Vì lời giản dị nên thơ của anh được đại đa số dân chúng ham thích.

Người ta lên mặt trăng
Mặt trăng gần quá nhỉ!
Anh muốn về Sài Gòn
Sài Gòn xa đến thế!

Sài Gòn xa hơn trăng
trăng đêm đêm vẫn thấy
Lòng Anh, em thấu chăng
Thấm trên từng trang giấy.
(Nhìn Trăng)

Những câu thơ giản dị trên như lời nói của người thường không cầu kỳ khó hiểu, nhưng rất thơ rất độc đáo.

Điểm này có lẽ anh cùng quan điểm với Bạch Cư Dị “ văn chương hợp vi thời nhi trước, thi ca hợp vi sự nhi tác”. Bởi vậy bất cứ thành phần nào trong xã hội khi đọc thơ anh đều bị cuốn hút theo ý thơ giản dị thực tế của anh. Thơ anh nói nhiều về thời thế, về người đời, và về đời người, với một quan niệm tích cực. Bởi vậy mục “ Đàn Ngang Cung” của anh nói về con người nhất là mặt trái của con người và của thời cuộc.
Những đặc điểm trên hiện ra rất rõ nét khi chúng ta đọc bài thơ trường thiên “Đời Không Đáng Buồn” anh viết trong thời gian trong tù. Hà thượng Nhân so sánh nỗi buồn đến thê lương của đại thi hào Bạch Cư Dị đời Đường bên Trung Hoa lúc nhà thơ bị thất sủng phải chịu cảnh đi đày ở Giang châu, bài Tỳ bà hành. Tỳ bà hành, một kiệt tác của Bạch Cư Dị đã làm cho nhiều thi nhân phải than khóc chia xẻ nỗi đau buồn của một danh sĩ khi sa cơ thất thế với người kỹ nữ tài hoa về buổi xế chiều của đời người.

Bạch Cư Dị đi đến Tầm Dương đất trích, Hà thượng Nhân vào cảnh lao lý ngục tù.
.

Đời không đáng buồn

Năm 1983 ra tù tôi tìm đến thăm Hà thượng Nhân. Tôi hỏi anh :
“ Những năm tháng tù anh viết nhiều thơ ?”
– “ Có viết, nhưng như anh biết có chép được đâu chỉ làm rồi đọc thuôc lòng, sẵn đây tôi đọc cho anh nghe” Rồi anh kéo một hơi thuốc lào bằng chiếc điếu cày, anh đọc một hồi lâu. Thật sự tôi cũng không quan tâm lắm vì lúc đó tôi vẫn còn hồi họp lo sợ vì tôi xem như đang trốn ở Sài gòn và chưa biết ở đâu, sống như thế nào. Những ngày sau đó tôi cùng giáo sư Cam duy Lễ làm buổi tưởng niệm thi sĩ Tạ Ký, cả ba chúng tôi là bạn thân và thường xuyên uống rượu ở chợ Đũi. Buổi tưởng niệm tại nhà Cam Duy Lễ có Hà thượng Nhân dự. Trong buổi tưởng niệm âm thầm này Hà thượng Nhân đọc cho chúng tôi nghe thơ làm trong tù. Mãi đến sau năm 1990 tôi gặp Hà thượng Nhân ở Mỹ tôi mới biết được những đoạn thơ trong tù đó là bài trường thiên có tên “ Đời Không Đáng Buồn”

Đọc suốt 11 đoạn 426 câu “ Đời không đáng buồn”của nhà thơ Hà Thượng Nhân chúng ta thấy rõ tâm trạng của tác giả muốn gửi gấm nỗi lòng của mình trong bản trường ca này. Hà thượng Nhân đã sống nhiều, trải qua các thời đại, các chế độ, và suốt ba cuộc chiến tranh lớn là đệ I I thế chiến, và cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, cuộc chiến tranh chống cộng sản. Tác giả ( tôi muốn nói Hà thượng Nhân ) không phải là người đứng ngoài lề cuộc đời, người quan sát, người ngoại cuộc, mà là người xìa vai vào thời cuộc gánh vác công việc quốc sự. Tác giả đã nhiều phen quyết “ đem hết sở tồn làm sở dụng” của một kẻ sĩ, của một bậc quân tử thời trước.

Chánh quyền quốc gia miền Nam Việt Nam thua cuộc, cùng với số phận của những người trực tiếp chiến đấu để bảo vệ miền Nam phải chịu cảnh đoạ đày tàn ác, man rợ của chánh quyền cộng sản. Nỗi đoạn trường nỗi đau khổ, tác giả đã gói trọn trong 426 câu thơ. Trong đó tác giả so sánh với nỗi đau buồn của nhà thơ lớn đời Đường, Bạch Cư Dị khi bị đi đày làm Tư mã Giang Châu.

Bạch Cư Dị (772-846 ) nhà thơ đời Đường. Làm quan lớn trong triều đình nhưng vì tánh cương trực thẳng thắn, bị nhiều quan trong triều dèm pha ganh tị, nên ông phải bị đi đày làm tư mã đất Giang Châu. Nơi Tầm Dương đất trích, Bạch Cư Dị sống trong cảnh u buồn xa vắng. Buồn vì không được nhà vua trọng dụng, buồn vì thói đời nhất là trong chốn triều đình người lương thiện thẳng thắn không đất đứng, lại thêm cảnh sông núi tuy có đẹp có hùng vĩ thật, nhưng hoang vắng thê lương. Thế rồi trong canh khuya , nhân tiễn khách ra về trên chiếc thuyền con, thi sĩ bắt gặp tiếng đàn như khóc như than của người ca kỹ trong tuổi xế chiều. Thương xót tâm trạng u buồn của người ca kỹ đó, thêm vào tâm trạng u hoài của mình Bạch Cư Dị viết nên bản trường ca “ Tỳ bà hành”, một kiệt tác của nhân loại.

Rồi từ đó, và mãi mãi sau này, nhiều nhà thơ chia xẻ nỗi buồn thấm thía của Tỳ bà hành. Nhà thơ cổ đa tình Chu mạnh Trinh thương mến Thúy Kiều liên tưởng đến người ca kỹ bến Tầm Dương :

“ Than ôi một bước phong trần mấy phen chìm nổi. Trời tình mờ mịt, bể giận mênh mông. Sợi tơ mành theo gió đưa đi. Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch. Ai dư nước mắt khóc người đời xưa. Thế mà giống đa tình luống những sầu chung. Hạt lệ Tầm Dương chan chứa….”

Rồi tiếp nối theo :
“ Thuyền buộc sông mưa
Ngựa dừng trăng khuyết
Tình nhân thế chua cay người lịch duyệt
Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu…
Hoặc :
Cô đơn men đắng sầu trăng biến
Đất trích Tầm dương quặn tiễn đưa
( Vũ hoàng Chương)

Rồi nhà thơ tài hoa Xuân Diệu :
“ …Rồi khi khúc nhạc đã ngừng im
Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim
Còn cứ run hoài như chiếc lá
Sau khi trận gió đã im lìm

Vì là thi nhân, cũng vốn nòi tình, Hà Thượng Nhân chia xẻ nỗi niềm của Bạch Cư Dị với người ca kỹ già ở bến Tầm Dương. Nhất là lúc sa vào vòng lao lý, Hà thi nhân thấy mình gần gũi với nhà thơ Tỳ bà hành và Trường hận ca. Bỗng dưng Hà thượng Nhân so sánh cuộc đời khổ ải đau buồn của mình với cuộc đời của nhà thơ lớn đời thịnh Đường của Bạch Cư Dị. Cảm nỗi khổ đau của Bạch Cư Dị, và còn hơn nữa, cảm nỗi buồn cho số kiếp đáng thương của người kỹ nữ về già, và còn hơn nữa, …. Dù trong cảnh tù đày khổ aỉ khắc nghiệt nhất, Hà Thượng Nhân viết nên khúc trường thi trên 400 câu. Và tôi xin được trình bày dưới đây.

Đoạn 1. Có 40 câu.

Tác giả đi ngay vào đề, tuy Bạch Cư Dị có niềm đau buồn thật, nỗi buồn người kỹ nữ có da diết đáng thương thật, và cộng hai nỗi buồn hòa hợp đó thành bản trường ca bi ai làm cho người đời sau còn nhỏ lệ còn xót xa chia xẻ và luôn luôn là những cảm hứng của thi nhân muôn thuở. Nhưng nếu đem so với nỗi khổ đau chua xót của tác giả trong cảnh tù đày khắc nghiệt thì có có thấm vào đâu. Bởi vì thật sự nếu Bạch Cư Dị từ quan về vườn thì cuộc đời có hoàn toàn tự do của một con người. Còn tác giả, Hà Thượng Nhân, dù ước mơ đơn giản được gần gủi vợ con, sống cuộc sống giản dị nhất ở thôn dã, không nghĩ đến công danh sự nghiệp,… cũng không thể được, vì phải chịu cuộc đời tù tội trong bốn bức tường chật hẹp, chịu một cuộc sống đày đọa khổ cực thấp kém dưới mức sống của con người, ngang mức sống của thú vật. Tác giả đã từng suốt đêm đọc Tỳ bà Hành để chia xẻ giọt nước mắt Tầm Dương của Bạch Cư Dị , nhưng rồi đây trong thế giới văn minh đại đồng sau này có ai nghĩ đến cuộc đời đau khổ khôn cùng của tác giả ?

Bạch Cư Dị ngày xưa đất Trích,
Bến Tầm Dương cùng tịch nghe đàn.
Bao nhiêu nỗi thở, niềm than,
Tiếng Tỳ vừa dứt chứa chan mạch sầu !
Thơ để lại ngàn sau tri kỷ,
Nỗi đoạn trường nào chỉ riêng Ông ?
Rượu không, tiền bạc cũng không,
Chân cuồng bước quẩn ở trong xó nhà.
Tôi cũng bệnh, lại già hơn Bạch,
Bả lợi danh rũ sạch từ lâu,
Lau vàng, trúc võ thấm đâu, (1)
Đất cằn sỏi đá lạnh thâu đêm ngày.
Vài củ sắn ăn chay suốt tháng,
Một căn buồng, trăm mạng chia nhau.
Mỗi năm cơm sạn vài thau,
Mắt thèm quên cả niềm đau thuở giờ.
Lại diễn lại nước cờ thí tốt,
Lửa oán thù nhóm đốt tình thương.
Ông còn là kẻ hiền lương,
Tôi trong cảnh ngộ bất thường, éo le.
Dẫu có muốn đêm nghe vượn hót,
Hoặc nghiêng chai mình rót cho mình.
Ông như nếu muốn thực tình,
Từ quan về với gia đình làm dân.
Tôi dù muốn chân trần, áo vá,
Bên vợ con nấn ná qua ngày.
Tuổi già sớm dắt trâu cày,
Tối về vui với một bầy trẻ thơ.
Trước trăng gió hững hờ thế sự,
Gần cỏ cây tình tự đôi câu.
Thế nhưng có dễ dàng đâu !
Ông, tôi rõ thật khác nhau muôn vàn.
Đọc thơ Ông canh tàn chẳng ngủ,
Ghen với Ông lại cứ thương Ông.
Ngàn sau dẹp hết gai chông,
Nếu như thế giới đại đồng văn minh.
Có ai nghĩ tới mình, rỏ lệ,
Mà thương cho cái lụy làm người ?
Hay là no ấm tốt tươi,
Hậu sinh chỉ biết học cười cũng nên !

Đoạn 2. Có 32 câu.

Sau 75, ( 1975 ) hàng triệu người Việt Nam miền Nam bị cảnh tù tội, nay dù sau trên hai mươi năm, đọc đoạn thơ trên vẫn còn ớn lạnh. Bốn câu thơ sau đây đủ nói lên cảnh tù tàn nhẫn ác độc của Việt cộng đối với những người bị gọi là ngụy quân ngụy quyền :

Mọi đi đứng, nói chào, thức ngủ,
Phải học hành, tuân thủ từng ly.
Củ khoai, chén bắp, khúc mì,
Còn chưa ấm dạ nói gì bát cơm !?

Đến những câu này thì tội nghiệp quá, đọc lên muốn khóc :
Giọt mồ hôi nhễ nhại vai già.
Tối về nhốt kỹ trong nhà,
Của trời trăng gió lại là của ai.

Nhìn bên ngoài người tù của chế độ cộng sản, rách rưới xác xơ, đi lại thất thểu như những bộ xương, làm cho người thân thích bạn bè nhìn vào thương xót, nhưng bên trong bản thân người tù vẫn một tinh thần vững vàng không sụp đổ

Ngoài là kẻ tội đồ bệ rạc,
Trong, tâm hồn mộc mạc thiết tha.
Bạn bè thân thích xót xa,
Người trong cảnh ngộ cứ là thản nhiên.

Đoạn 3

. Là đoạn dài nhất có tới 90 câu
Trong đoạn này phần đầu tác giả mô tả lại cảnh Bạch Cư Dị gặp người kỷ nữ trên bến Tầm Dương và thương xót người kỷ nữ qua tiếng đàn Tỳ bà ai oán.
Người dạo nhạc ở đâu tới đó ?
Khách đa tình thật khó làm ngơ.
Lần theo tiếng nhạc bất ngờ,
Giai nhân tháng đợi, năm chờ là đây.
Tác giả cho biết từ lúc nhỏ đã ham mê thơ nhạc và bây giờ vào tuổi già, trên 60,vẫn không thay đổi không giảm sút. Do đó tác giả vô cùng thâm cảm với nhà thơ thổ lộ trong tỳ bà hành
.Người trong tiệc khóc vì oan trái,
Hay khóc vì nông nỗi phù du ?
Ngàn xưa thăm thẳm, mịt mù,
Nỗi lòng theo tiếng gió thu vẫn còn !

Tác giả là một người lính hiền lành, chỉ biết cuộc sống chân thật, nhưng rồi thời thế đẩy đưa đến cảnh vào ngục tù lao lý.
Bên ngoài dân chúng đang sống lầm than đói khổ. Ngờ vực hoài nghi sợ hãi làm cho con người hờ hững lạnh nhạt. Nhà thơ thương xót họ nhất là lớp trẻ con đói khổ mất hết cái hồn nhiên vui vẻ của tuổi trẻ. Thương xót con người quên mất mình là người nằm trong cảnh ngộ bi thương nhất, cảnh tù !
Gặp người, người những hững hờ,
Trẻ con còm cõi, ngẩn ngơ, lạnh lùng.
Ta nhìn họ vô cùng thương họ,
Quên hẳn mình cảnh ngộ bi thương.
Giam thân trong bốn bức tường,
Lạ chưa ! Lòng vẫn bình thường thản nhiên.

Nhưng có lẽ khác với Bạch Cư Dị, Hà Thượng Nhân luôn luôn tích cực, nhìn sự đau khổ với cái nhìn của một con người nặng về quốc sự, của con người thua cuộc một cách tức tưởi. Tuy vậy với niềm tin không lay chuyển, tác giả tuy có buồn, có mất tự do mất quyền sống, có đói khổ, có nhớ thương gia đình vợ con, nhưng không để những thứ đó làm mềm yếu lòng yêu nước, yêu thiên nhiên, yêu nghệ thuật, yêu thơ….

Phong trần làm ráo lệ sầu,
Thôi ! Rồi nước chẩy qua cầu cũng qua.
Nắng có đốt nhưng hoa vẫn nở,
Sương có gieo, lộc mở cành xuân.
Ta còn bạn hữu quây quần,
Thay ly rượu trắng bằng tuần nước trong.
Còn nguyên vẹn tấm lòng náo nức,
Biết có trăng là thức chờ trăng.
Cùng trăng chẳng được đãi đằng,
Ngoài thềm man mác lòng giăng mắc sầu !

Đoạn 4. Có 40 câu.

Tác giả luôn luôn cảm mến thương xót Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị luôn luôn so sánh nỗi buồn trong bài trường ca này với cuộc đời đau khổ của mình rồi mới thấy hai cuộc sống hai nỗi đoạn trường cách nhau xa quá !

Ông còn có chén rượu cay,
Còn thơ đủ để mình say với mình.
Bao nhiêu nỗi bất bình nói hết,
Bút, mực còn Ông viết tự do.
Đêm trăng thả một con đò,
Kề bên người đẹp nhỏ to tiếng đàn.
Giữa trời nước chứa chan cảm khái,
Bờ lau khô gác mái chèo con.
Tỳ bà thánh thót nỉ non,
Áo xanh càng ướt, rượu ngon càng đầy.

Tôi canh vắng nằm đây thao thức,
Nhớ vợ con đau nhức ruột gan.
Chẳng xa mà cách muôn vàn,
Gió xuân có lọt vào màn em không ?
Muốn mở cửa dậy trông trăng sáng,
Trăng thượng tuần lênh láng tường giam.
Yêu trăng thôi cũng đành cam,
Yêu thơ thật khó mà làm được thơ.

Vô cùng xót thương, tác giả, yêu gia đình yêu vợ con, nhớ nhung vô hạn nhưng đành phải cắn răng chịu đựng. Ngay đến yêu trăng cũng phải đành cam lòng, kể cả viết những dòng thơ cũng thật khó khăn. Hoàn toàn khác hẳn với Bạch Cư Dị ở đất trích Tầm Dương. Tác giả thèm khát cảnh sống tự do. Nhưng rồi thời cuộc đổi thay cuộc đời may rủi không do mình định đoạt. Là một thi nhân thích sống với thiên nhiên với trăng gió nhưng có ngờ đâu rồi phải ngồi tù đã bốn năm đằng đẳng, và biết bao giờ cho hết cảnh đoạn trường này ?

Tôi muốn sống cuộc đời thi sĩ,
Cũng như ông, vốn dĩ nòi tình.
Chỉ mong thế giới hòa bình,
Mong người no ấm, mong mình thảnh thơi.
Giữa trần giới rong chơi một kiếp,
Khúc hạo ca (1) viết tiếp tri âm.
Thế nhưng gió bụi cát lầm,
Quẩn quanh laị đã bốn năm ở tù.
Ngày đoàn tụ mịt mù chẳng biết,
Tin vợ con biền biệt không hay.
Hỏi ai, món nợ ai vay,
Chúng tôi liệu trả đến ngày nào xong ?

Đoạn 5 . Có 44 câu thơ

Tuy hoàng cảnh không gian có khác biệt. Hoàng cảnh thời gian khác biệt, tuổi tác khác biệt. Nguyên nhân gây nỗi đoạn trường khác biệt. Nhưng suy có cùng, tác giả tìm được điểm giống nhau với Bạch Cư Dị dù cách nhau đến 10 thế kỷ.

Tuổi tuy khác nhưng tâm lại một,
Khờ là ta, dại dột là ta.
Ngây thơ từ trẻ đến già,
Lúc nào cũng cứ thiết tha, chân thành.

Khi biết là một rồi, tác giả như nghi ngờ nhưng là sự chính xác định, Bạch Cư Dị chính là ta đó, và ta đây chính là Bạch Cư Dị . Nhưng Bạch Cư Dị trở thành ngôi sao sáng chói Thịnh Đường, còn tác giả thì sao ? Tuy là câu hỏi nhưng là câu trả lời rồi đó, vì tác giả là người tự tín, tự biết mình có tài, có ý chí, vượt qua mọi trở ngại khổ đau.

Ta là ai ? Ai đó là ta ?
Canh khuya vắng tiếng tỳ bà,
Mênh mông dằng dặc bao la đất trời !
Định mở miệng nghẹn lời chẳng nói,
Nói với ai ? bụng đói tay run.
Hỡi ơi ! Mực cạn, bút cùn,
Văn chương nếu rẻ như bùn đã may !
Vốn chẳng sợ chất cay vị đắng,
Thì nắng mưa, mưa nắng sự thường.
Ông làm nổi giá Thịnh Đường,
Liệu tôi góp với văn chương được gì ?

Đoạn 6. Đoạn này có 48 câu.
Tác giả vô cùng cay đắng, và cũng phải thừa nhận khi con người tận cùng sự đói khổ, thì chỉ còn biết làm sao để sống, tức khỏi chết, còn mọi thứ khác không dám nghĩ đến. Con người bị hạ thấp cùng cực.

Văn chương, nghệ thuật đều thừa,
Thẻ đường, thìa bột mới vừa lòng nhau.
Chẳng cần biết niềm đau tâm thức,
Chẳng cần bàn đạo đức phải chăng.
Chỉ còn biết tới miếng ăn,
Chỉ còn sót lại bản năng tự tồn !
Trong cảnh như thế đành bó tay. Sức vùng vẫy của bậc trượng phu bậc anh hùng phải cần môi trường rộng rãi, bốn biển là nhà và xây nhà trên bốn biển. Nay sa cơ bị “ Ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi. Với cặp báo chuồng bên vô tư lự ( Thế Lữ ). Đành bó tay làm kẻ tội đồ.
Trùng khơi thả sức cá kình,
Chuồng con hổ báo cũng thành hươu nai.

Tuy trong cảnh lao tù nhưng tác giả không cô đơn như Bạch Cư Dị. Tác giả luôn luôn sẵn có niềm tin nên lúc nào cũng giữ cái tâm thản nhiên ung dung tự tại, mặc dù bọn ruồi nhặn nhởn nhơ ngay trong nhà lao, và ngoài cuộc đời, đang làm tang tóc đau thương cho dân chúng.

Tôi bằng hữu ra vào đông đúc,
Lại thua Ông một khúc tỳ-bà.
Tóc bù, mắt sáng lũ ta,
Niềm tin hừng hực bao la đất trời.
Mặc ruồi nhặng lả lơi trước mắt,
Vào lò than rõ sắt, rõ chì.
Ung dung lúc đứng, lúc đi,
Thăng trầm thì có đáng gì quan tâm ?
Tác giả buồn cho số phận quốc gia bị mắc vào cảnh nội chiến suốt 30 năm làm cho quê hương tan nát, dân chúng vô cùng khổ đau. Tác giả nhắc lại bài thơ “ Thạch hào” của Đỗ Phủ, nói lên cái đau thương của người dân bị bắt phục dịch cho chiến tranh. Và chiến tranh chỉ gây thiệt hại không chừa một ai. Và cũng vì chiến tranh nên “ nay sa cơ nhục nhằn tù hãm”
Trải qua một cuộc tranh hùng,
Ba mươi năm đã vô cùng thảm thương !
Tôi chợt nhớ đời Đường, Đỗ Phủ
Bài Thạch-hào (1) nhắn nhủ gì ta ?
Gẫm từ gây chuyện can qua,
Hại chung khắp cả muôn nhà, lợi ai ?
Đoạn 7. 52 câu.
Người ta chê trách chế độ phong kiến, nhưng thực ra các thời thịnh Đường của ông có nhiều nhà thơ, nhiều nhà nghị luận tài ba lỗi lạc, vì các ông có Tự do, suy tư tụ do, sáng tác tự do theo lòng theo ý của mình. Thi nhân nghệ sĩ đời ông có cả một trời, một kho vô tận gió trăng..
Thời Ông phỏng có thái bình, tự do ?
Nghe nói đến muôn vò rượu quí,
Lại rất đông nguyên súy tao đàn !
Văn không riêng một họ Hàn, (1)
Thơ thì Lý, Đỗ kề bàn Âu, Tô. (2)
Trăng gió sẵn tha hồ ban phát,
Của trời cho bát ngát vô biên.
Đọc những câu thơ trên ta thấy cảnh nhộn nhịp của những bậc thi nhân tài hoa thời thịnh Đường và từ đó đối chiếu với hiện tại, cuộc sống khổ đau, cuộc sống gông cùm xiềng xích… chan chát đập vào cuộc đời tác giả. Một cuộc sống trong một xã hội chuyên chế gò bó bóp chết tự do của con người.
Nay thời thế mối rường đổi khác,
Sống là ăn, là mặc, là làm.
Làm sao từ Bắc chí Nam,
Bàn tay ai cũng nhúng chàm như nhau.
Hoa chỉ đẹp một màu hoa đỏ,
Nói chỉ mong nói rõ lập trường.
Lập trường từ chuyện yêu thương,
Trong từng nhịp thở trong đường bước đi.
Tác giả mơ ước được sống cuộc sống của người xưa, khi chiến tranh thì thanh kiếm nhưng khi lui về hoặc khi thanh bình thì thanh kiếm biến thành thơ và cái tồn tại luôn luôn là nghệ thuật là thi ca. Đoạn thơ dưới đây bừng sáng cái cao cả của kẻ sĩ thời xưa xử thế đúng quan niệm “ Hành Tàng bất nhị kỳ quan”
Sông Xích Bích bay mờ ánh thép,
Tào A Man kiếm chép thành thơ.
Đoản ca còn mãi đến giờ,
Buông gươm tay nọ, cầm thơ tay này.

Những câu tả cảnh nhàn sau khi trang trả nợ đời, những câu thơ tuyệt hay !
Khi dũng tướng thành lay, núi đổ,
Lúc lui về : cửa sổ trăng treo.
Mái rơm quên mọi eo sèo,
Thênh thênh vạt áo lưng đèo phất phơ.
Đọc kinh Phật bên bờ suối vắng,
Trần hai vai sưởi nắng đầu xuân.
Chim ngàn ríu rít quây quần,
Bao giờ hết kiếp trầm luân thì về.
Đoạn 8.1. Đoạn này chỉ có 20 câu.
Tác giả nhắc lại nỗi buồn của người ca kỹ về già. Con người chung qui vốn buồn vì thời gian có chờ người nào đâu, tất cả rồi đi vào chỗ tàn rụi, không tránh được cái qui luật đó.
Người kỹ-nữ vén ngồi khép nép,
Vài nếp nhăn hằn mép già nua.
Cuộc đời thôi thế là thua,
Thời gian sao có thể mua mà hòng !
Rồi tới lúc lưng còng gối mỏi,
Sắc Tây Thi tránh khỏi tàn phai ?
Tử sinh nào có riêng ai ?
Ngàn xưa vẫn tiếng thở dài ngàn sau !
Đoạn 8-2 . Đoạn này có 24 câu.
Người đời vì quyền thế mà tranh dành, công và tội nhiều khi trong gang tấc. Nói như nhà ngoại giao Pháp phê phán các anh hùng trong cuộc cách mạng 1789 “ Chết trước một giờ là ái quốc, chết sau một giờ là phản quốc”. Cuộc đời quả là cảnh phù du. Đến như Nã phá Luân đến như Đại Hãn rồi còn cái gì ? Thực ra cái còn lại và lưu truyền hậu thế là “ một tấm lòng” và thêm cái bi thảm của kiếp người, dòng lệ sa. Bởi vậy tác giả vẫn tự hào ở lòng nhân ái, và cũng vì lòng nhân ái, nên tù hay không tù không phải là điều quan tâm, cũng như ngày xưa nhà thơ Nguyễn công Trứ đã trải qua. Tác giả rất tự tín, rất tự hào, cũng như Uy viễn tướng công ngày xưa.
Công với tội, lừa nhau đến thế,
Đắt bao nhiêu chiếc ghế quyền hành !
Ngày nào mái tóc còn xanh,
Soi gương mình bỗng giật mình : phù du !
Mặc những kẻ gây thù chuốc hận,
Nã Phá Luân, Đại Hãn còn không ?
Chỉ còn riêng một tấm lòng,
Và thêm vào đó những dòng lệ sa.
Ta vẫn ca khúc ca nhân ái,
Vẫn ung dung phong thái người thơ.
Ở tù hay chẳng ở tù,
Xưa kia Uy Viễn bây giờ là ai ? (1)

Đoạn 9-1. Có 20 câu.
Và sau đây là giấc mơ của tác giả. Làm một thường dân áo vãi chân trần, nhưng học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời đau khổ, và rồi cùng với những bậc ái quốc đứng lên lật đổ bọn bạo tàn đem lại tự do cho dân tộc, cho con người, để mọi lớp tuổi tác đều vui hưởng cảnh thái bình. Không còn tiếng kêu than bất bình bất công nữa, và người và cảnh vật đều vui tươi hạnh phúc . Không còn là đất trích Tầm Dương nữa mà là nơi dân chúng sống sung túc chan hòa với cảnh đẹp của thiên nhiên không phải còn là nơi buồn phiền khổ lụy.

Ta làm kẻ chân trần, áo vải,
Học thêm người từng trải, khôn ngoan.
Ước cùng tráng sĩ muôn ngàn,
Rủ nhau rảo khắp doanh hoàn thử xem. (1)
Đến lúc đó nếu thèm củ sắn,
Nghĩ tới ai chân lấm, tay bùn.
Rủ nhau phá sạch gông cùm,
Tự do đốt lửa dâng ngùn ngụt cao.
Rồi ta sẽ người nào, việc nấy,
Nhìn vào đâu cũng thấy thương yêu.
Môi son, thiếu nữ sớm chiều,
Vun hoa, gió thổi áo điều phất phơ.
Trẻ ngồi học ngây thơ sớm tối,
Già thưởng trà, tóc rối tơ trăng.
Rồi trong ngôn ngữ, nói năng,
Chữ nào như chữ bất bằng, bỗng quên.
Giữa trang sách bừng lên tiếng hát,
Dòng sông xanh bát ngát lừng hương.
Vẫn cây, vẫn nước Tầm Dương,
Nhưng ngày nay đã chật đường ngựa, xe.
Đoạn 9-2 và cũng là đoạn chót có 16 câu.
Bây giờ thì khác hẳn rồi. Khó mà tìm lại được cái thú ngày xưa, nên lại nhớ tiếc những hình ảnh ngày xưa, con thuyền lên đênh trên mặt nước một cách vắng vẽ. Tác giả đặt ra một nghi vấn, thế thì truyện Tỳ bà hành có thực không mà lâu nay người đời nhất là thi nhân chia xẻ nước mắt với nhà thơ đi đày và người kỷ nữ hết thời xuân sắc. Nhưng một điều chắc chắn có thực là nhà thơ tài hoa Bạch Cư Dị từng uống rượu với người đẹp.
Nhưng điều quan trọng nhất là giữa tác giả và nhà thơ viết nên khúc tỳ bà hành, khúc trường hận ca, có một sự thông cảm sâu sắc, vì cũng là nòi tình nên đồng điệu
Thật chỉ có Ngũ Lăng công tử,
Rượu thơm ngon rót thử chén vàng.
Lầu bên người đẹp nhìn sang,
Mây Tầm Dương, nước Lam Giang hữu tình.
Một điều chắc thật nhất, là cuộc đời tù tội khắc nghiệt của chế độ cộng sản mà tác giả và những người bạn tù của tác giả đang sống đang bị đày đọa. Nhưng tác giả có đau khổ thật, có nhớ nhung thật, có lúc cô đơn vắng lạnh, nhưng không có giọt nước mắt như tư mã Giang Châu với người ca kỹ ở tuổi xế chiều. Nỗi đau nỗi buồn của tác giả là nỗi đau chung của dân tộc, nên không thể buông xui phó cho thời gian cho mệnh số . Mà phảì là những kẻ cùng cảnh ngộ đồng tâm đồng chí nhất định sẽ “ tát cạn biển Đông”.Với quan niệm tích cực yêu đời như vậy, nên Đời Không Đáng Buồn.
Đoạn kết tác giả viết ngắn gọn và đưa ra một nghi vấn làm cho người đọc ngạc nhiên một cách kỳ thú.
Dù có muốn đêm nghe vượn hú,
Tìm đâu ra cái thú lâm tuyền.
Đêm trăng vắng giọng Đỗ Quyên,
Lại đâm nhớ tiếc con thuyền lênh đênh !
Vài đốm lửa bập bềnh sóng nước,
Ngoảnh vời trông sau, trước bao la.
Vỗ thuyền ca một khúc ca,
Rằng xưa tâm sự tỳ bà thật chăng ?
Thật chỉ có Ngũ Lăng công tử,
Rượu thơm ngon rót thử chén vàng.
Lầu bên người đẹp nhìn sang,
Mây Tầm Dương, nước Lam Giang hữu tình.
Thật chỉ có : Chúng mình bầu bạn,
Thuận nhân tình tát cạn biển Đông.
Bấy giờ tôi lại đọc Ông,
Gửi về dĩ vãng : Đời không đáng buồn.
Qua bài thơ trường thiên trên ta thấy được con người của Hà Thượng Nhân. Một con người đứng ngoài danh lợi ở mọi chế độ. Thích sống cuộc sống giản dị vui với gia đình với làng mạc, với cỏ cây sông núi, với một tâm hồn thi ca phong phú. Gặp thời thế phải lâm vào cảnh tù đày cực khổ, nhưng lúc nào nhà thơ cũng giữ được phong thái của một người ung dung tự tại. Không than thở, không chán nản, dù phải chịu cảnh sống ngục tù dưới mức sống của con người. Nhà thơ lúc nào cũng tin tưởng, rồi sẽ có ngày thật sự thanh bình, con người có tự do, có quyền làm người, và nhà thơ viết những vần thơ phóng khoáng theo luồng cảm hứng tự do của mình. Bởi vậy, Đời không đáng buồn !
Suốt một bài thơ dài luôn luôn giọng thơ thiết tha cuốn hút người đọc.
Tôi nghĩ bài thơ trường thiên “ Đời Không Đáng Buồn” là bài thơ bất diệt trên thi đàn Việt Nam

Hà Thượng Nhân đã tâm tình :
“Điều quan trọng là liệu tôi có dựa vào nỗi lòng của cổ nhân để gửi gấm được chút gì nỗi lòng của mình chăng ? Liệu những oan trái mà tôi và các bạn tôi đã trải qua có thể làm cho người đọc bồi hồi xúc động như tôi đã bồi hồi xúc động khi đọc Tỳ Bà Hành chăng ? Từ đó, liệu con đường đi tìm Chân Lý, đi tìm Sự Thật, đi tìm Lẽ Phải có bớt chông gai được chút nào chăng ?”

Theo tôi : Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được lưu truyền lâu dài và là nguồn cảm hứng cho những nhà thơ, hay người có tâm hồn thơ, ở hậu thế phần chính vì sức truyền cảm mãnh liệt của thơ của nhạc trong bản trường thiên bất hủ đó. Và đó là thiên tài thơ của Bạch Cư Dị. Dù thời đại nào, dù ngôn ngữ có biến chuyển, dù cách thức diễn đạt trong thơ có thay đổi và cả về quan niệm nghệ thuật về nhân sinh quan có thay đổi, nhưng thơ với cái ý nghĩa của nó ( Thơ không làm cho sự xúc động bớt đi (turning loose of emotion) nhưng làm thoát ra khỏi sự xúc động (escape from emotion); thơ không diễn đạt cá tính riêng, nhưng làm thoát ra khỏi cá tính. ( thi sĩ người Mỹ T, S, Eliot – 1888-1965), lại cộng với nhạc, thì nhất định lời thơ đó phải trường tồn vượt không gian và thời gian. Chứ thực ra cái tâm trạng của một ông quan bị giáng chức, bị đổi đi xa đến nơi vắng tịch, với cuộc đời về già của một ca kỹ, thực sự cũng không có gì đến phải đoạn trường đứt ruột như Thúy Kiều phải chìm nổi nhục nhã trong mười lăm năm, như cuộc đời lao tù khắc nghiệt nhất của Hà Thượng Nhân suốt năm năm trường.

Tiếng khóc tiếng than, tiếng tỳ bà ai oán trên con thuyền trong đêm khuya vắng ở Bến Tầm Dương cũng có thể do hồn thơ lai láng của thi nhân lãng mạn sáng tạo. Nhưng cuộc đời ngục tù Hà thi nhân mắc phải suốt một thời gian dài, là một điều có thực, lịch sử đã ghi chép, và người đời ai ai cũng thương cảm. Lại thêm những lời thơ thật là thơ, khi hùng hồn, khi ai oán, khi uất hận khi buồn lê thê da diết… thì nhất định sẽ được muôn đời thâm cảm.

Còn về Chân lý, Sự thật, Lẽ Phải con đường đi tìm kiếm nó có phần dễ dàng chút nào không như nỗi mong muốn của Hà Thượng Nhân. Tôi không bi quan nhưng chân lý, sự thật và lẽ phải nhiều khi gần như đuổi bắt hoài không bao giờ nắm lấy được.

Thơ tình yêu

Hình như thi sĩ nào có lẽ bài thơ đầu tiên là bài thơ tình yêu, và số thơ này chiếm đa số trong số thơ của một đời thi sĩ. Với Hà Thượng Nhân loại thơ tình yêu nhiều lắm nhưng tôi muốn đề cập một bài thơ viết có lẽ ở tuổi quá 80 để tiễn đưa một nữ thi sĩ du lịch Trung hoa.

Các bạn hãy đọc đi, đọc suốt 25 đoạn 100 câu, rồi mới thấy với tuổi bát thập mà còn những câu thơ hào sảng những câu thơ tha thiết mến yêu, bạn mới thấy phải “ nội công thượng thừa” Hà thi nhân đã “ thổ tận can tràng.” Dù hai mươi lăm đoạn, mười phân vẹn mười, nhưng tại hạ thích nhất đoạn 8 :

Em hãy đến Hàn San chiều cuối Hạ,
Nghe tiếng chuông trên bến cũ Tần Hoài.
Quạ kêu sương, sương đổ mái hiên ngoài,
Chén rượu cạn trăng hạ huyền lạnh lẽo

Thơ đến như thế thôi còn nói gì nữa !. Những hình ảnh “ Hàn San chiều cuối Hạ” “ bến cũ Tần Hoài” “ Quạ kêu sương” “ trăng hạ huyền lạnh lẽo”. Đọc lên hiện thấy một buổi chiều buồn mung lung của Trời Đất. Một nỗi buồn dằng dặt của tâm hồn thi nhân, sự mong manh nhỏ bé của một kiếp người…Thời gian, không gian, âm thanh, hình ảnh thiên nhiên, tâm trạng u buồn của con người ….tất cả những thứ đó hài hòa tạo nên một bức tranh màu sắc, lành lạnh, lãng mạn, tuyệt đẹp !

Tôi cũng quá say mê 12 câu dưới đây.Tôi đọc đi đọc lại biết bao nhiêu lần càng đọc chất thơ ngấm thấu trong người. Một cảnh trăng lạnh bát ngát tác giả uống rượu đọc thơ với nữ sĩ sắp về Trung quốc “trăng như mộng bốn bề xanh bát ngát” Rượu và thơ làm cho kẻ ở người đi xao xuyến buồn. Buồn vì ly biệt buồn vì hình ảnh đi về Trung hoa như đi về quá khứ, đi về người xưa, với nỗi lòng ray rứt. Rồi hình ảnh Trữ La thôn, nơi dệt vãi lụa của người sắc nước hương trời Tây Thi hiện ra, với mối tình thơ mộng lãng mạn muôn đời của nàng với người yêu Phạm Lãi.
Anh chợt nhớ tiếng chầy xưa đập vải.
Những thiếu nữ dưới đêm sương mê mải,
Ðến bây giờ còn nhớ gái Tây Thi.

Về xứ sở của các người đẹp huyền bí Liêu Trai, về nơi bảy người hiền xem công danh như phù vân, sống một cuộc sống khoáng đạt không bị gò bó trong khuôn phép của người đời. Bảy vị sống cuộc sống Lão Trang lưu danh hậu thế đó có biệt danh là Trúc lâm thất hiền. Em sẽ về xứ sở có những kẻ giang hồ thế thiên hành đạo, những anh hùng hảo hán Lương sơn bạc. Xứ sở em đến là xứ sở của thi ca và cũng là nơi có bạo chúa họ Tần đã xây Vạn lý trường thành bằng xương bằng máu của lê dân

Của nhóm Thất Hiền sống trên rừng trúc.
Cả của bọn giang hồ Lương Sơn Bạc,
Xứ của thi ca, xứ của Bạo Tần,

Cũng nơi em đến đó có những nhà hảo hán trọng nghĩa khinh tài Mạnh thường quân nêu gương sáng muôn đời.

Mời bạn đọc hãy đọc lại suốt 12 câu để thấy nhịp thơ dồn dập hồi họp những hình ảnh đặc thù phô trương nối tiếp :

Trăng như mộng bốn bề xanh bát ngát,
Rượu và thơ rung động mãi lòng nhau.
Nghe em đi, anh bỗng tự dưng sầu,
Anh chợt nhớ tiếng chầy xưa đập vải.
Những thiếu nữ dưới đêm sương mê mải,
Ðến bây giờ còn nhớ gái Tây Thi.
Xứ của Liêu Trai, xứ của Hồ Ly,
Của nhóm Thất Hiền sống trên rừng trúc.
Cả của bọn giang hồ Lương Sơn Bạc,
Xứ của thi ca, xứ của Bạo Tần,
Của những người hảo hán Mạnh Thường Quân.
Trăng vẫn chiếu trên Trường Thành đấy nhỉ ?

Đọc suốt 100 câu thơ, chúng ta mới thấy rõ Hà Thượng Nhân quả là một nhà thơ rất tài hoa. Cứ mỗi 4 câu tác giả dẫn những điển tích những hình ảnh đẹp quá trong lịch sử trong thi ca cổ của Trung hoa.

Tôi không nén được cảm xúc, xin phép bạn, tôi xin trình ra đây thêm một bài thơ nữa của Hà Thượng Nhân.

• Mùa Thu Nhớ

Ngõ hẹp rụng hoa vàng
Bướm bay đầy cửa sổ
Ta bỗng gọi tên nàng
Áo vàng lồng lộng gió

Ta bỗng rưng rưng nhớ
Mùa Thu vàng ánh trăng
Mùa Thu từ dạo đó
Mùa Thu lại vừa sang

Ta nhớ con chim nhỏ
Hót trên cành bằng lăng
Ta nhớ câu thơ cổ
Bông cỏ may bên đàng

Ta nhớ, ôi ta nhớ
Mùa Thu ta gặp nàng

• Càng về già con người càng sống với quá khứ. Nằm một mình trong căn phòng nơi đất khách quê người, nhìn ra cửa sổ thấy mùa Thu về, có hoa vàng có bướm bay. Tác giả chợt nhớ tới người xưa. Phải không, đó là người đẹp năm xưa, người yêu của tác giả gặp nhau yêu nhau lúc Thu về. Lâu lắm rồi, không nhớ là bao lâu, nhưng mãi mãi nhớ mùa Thu nàng mặc áo vàng. Không biết nàng còn, hay mất hay già nua như thế nào, nhưng nàng luôn luôn hiện về mùa Thu và hình ảnh xa xưa đó in sâu vào tâm trí thi nhân. Hình ảnh nàng về rõ quá thi nhân buột miệng gọi tên nàng.

Ngõ hẹp rụng hoa vàng
Bướm bay đầy cửa sổ
Ta bỗng gọi tên nàng
Áo vàng lồng lộng gió
Nhớ nàng ta không dấu được nước mắt. Trong đêm trăng mùa Thu trong gió Thu se se lành lạnh, nàng mặc chiếc áo màu vàng. Mùa Thu đó ta không quên được. Và từ đó, cứ mỗi độ Thu về, lòng ta lại chạnh nhớ đến nàng. Mới đây mùa Thu vừa qua nay mùa Thu trở lại.

Ta bỗng rưng rưng nhớ
Mùa Thu vàng ánh trăng
Mùa Thu từ dạo đó
Mùa Thu lại vừa sang

Hai câu “ Mùa Thu từ dạo đó, Mùa Thu lại vừa sang” diễn tả thời gian qua liên tục, nhất là cụm chữ “ từ dạo đó” và “ lại vừa sang” nói lên tính cách nối tiếp mãi mãi hết mùa thu năm đó đến năm sau, đến năm kế tiếp, và mãi mãi đến mùa thu năm ngoái, giờ đây đến mùa thu năm nay, và sẽ đến mùa thu sang năm, và mãi mãi…. tác giả luôn luôn đón nhận mùa Thu, mùa nhớ mùa thương của tác giả. Tôi muốn nói thêm một chút, thi nhân dùng ba chữ đơn giản “ lại vừa sang” đắc thể quá. Ví dụ tác giả viết “ Mùa Thu từ dạo đó , Mùa Thu lại hôm nay” thì không thấy sự nối tiếp liên tục, và rạo rực náo nức bằng “ Mùa Thu từ dạo đó, Mùa thu lại vừa sang” và mùa thu hôm nay. Sở dĩ tác giả viết rõ như vậy vì muốn diễn tả mùa Thu nào cũng vậy, hình ảnh nàng cũng hiện ra, làm rung động nhớ thương ray rứt.
Nhớ hình ảnh con chim nhỏ hót trên cành bằng lăng. Đó là hình ảnh mùa thu ở quê nhà . Trước trời Thu, gió Thu, trăng Thu, cảnh mùa Thu, chàng đọc cho nàng nghe những câu thơ tình tuyệt dịu của những thi nhân đa tình ngày xưa.

Ta nhớ con chim nhỏ
Hót trên cành bằng lăng
Ta nhớ câu thơ cổ
Bông cỏ may bên đàng
Ta nhớ, ôi ta nhớ
Mùa Thu ta gặp nàng

Hai câu chót của bài thơ, nói lên hết cái nỗi nhớ thương của thi nhân về người yêu nhưng bây giờ tuy tuổi đã xế chiều, tuy ngàn trùng xa cách, nhưng cứ mỗi thu về lại nhớ ray rứt nhớ đến rưng rưng khóc… người yêu.

Ý thức chánh trị.

Sở dĩ với Hà Thượng Nhân tôi đề cập điểm chính trị, vì năm 1952 anh đang tham gia trong cuộc kháng chiến, rồi bỏ hàng ngủ trở về vùng quốc gia vùng chống cộng sản. Bây giờ nhìn lại sự việc đó có thể thấy đơn giản, nhưng đó là một hành động quyết liệt, dứt khoát, đầy nguy hiểm, một hành động can đảm, khôn ngoan, nhìn xa thấy rộng.

Nói nhân nghĩa chẳng qua lừa bịp
Nói hy sinh có dịp giàu to
Chết vì một chữ Tự do
Là thôi! Lỡ cả chuyến đò hoa niên.

Lớp trẻ lớp trí thức vì lòng yêu nước yêu dân tộc, nên rất dễ bị lừa phỉnh bởi đảng cộng sản bởi lời xão trá của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Và khi tỉnh ngộ thì đã phí hết tuổi thanh xuân. Thi sĩ Tạ Ký cũng vậy cũng bị lừa và khi tĩnh ngộ thì
“ Nhân ái, công bằng, yêu đương bất khuất
Viết chữ Hoa trên óc trẻ mười lăm
Ba mươi năm biết chuyện xưa nhầm
Thì đau khổ đã hằn trên trán nhỏ…

Còn nữa :

Lừa lọc, gian ngoa, một bầy ác quỷ,
Tuổi thanh xuân tàn như một giấc mơ!
Hoảng hốt, điên cuồng, nhẫn nhục, bơ vơ,
Nắm tay nhỏ đưa lên trời phản đối,
Và tự hỏi mình: mình làm gì nên tội?

Hà Thượng Nhân và Tạ Ký là những người có nhận định đúng, và can trường nên dám thoát ra khỏi vòng kiềm cặp của cộng sản để về vùng tự do, vùng quốc gia. Trong khi đó, một số đông văn nghệ sĩ, hoặc mù quáng không thấy, hoặc không đủ khả năng nhận thấy, hoặc bị những hứa hẹn ưu đãi, những địa vị đảng ban phát, nên bị ru ngủ trong chế độ. Và chắc chắn một điều là không đủ can đảm liều lĩnh thoát khỏi chế độ cộng sản, nên những thi nhân văn nghệ sĩ đó đành phải hủy bỏ tự do để nhất nhất nghe lệnh của đảng, suy tư sáng tác theo ý của đảng.

Hà Thượng Nhân là lớp người chống cộng sản không khoan nhượng, chống tới phút chót của cuộc đời. Tiển người bạn thơ đi Trung quốc, anh không quên nhắc đến :

Về Thiên An thăm một chút em ơi !
Ðể thấy máu sinh viên đang réo gọi,
Chúng cấm nói nhưng sinh viên vẫn nói.
Ðè tự do dưới xích sắt xe tăng,
Có còn chi ghê tởm nữa cho bằng ?

Tác giả tiếc quá :

Sao đã có những người như Lý Bạch,
Lại còn sinh bọn quỷ dữ họ Mao ?

Nếu ai từng nói chuyện với Hà Thượng Nhân mới thấy anh không phải là một nhà thơ sinh ra chỉ để làm thơ. Ở Hà thượng Nhân chúng ta còn thấy con người có nhiều hoài bảo về xã hội về tổ quốc. Ở anh rõ nét của một sĩ phu muốn ra tài “ kinh bang tế thế”, nhưng không gặp thời, lại phải ở trong quân ngũ không thuộc thành phần lãnh đạo trung ương, nên anh chỉ đóng vai người góp ý mà thôi. Thời đệ nhất cộng hòa, thời tổng thống Ngô đình Diệm, Hà Thượng Nhân có soạn thảo tập “ Sơ thảo lý thuyết chiến tranh tâm lý” và anh làm giám đốc nha chiến tranh tâm lý, và làm giám đốc đài phát thanh quân đội. Anh có phong độ của một “ quân sư”, cố vấn chánh trị . Bởi thế mỗi khi bàn đến thời sự chánh trị thì anh thao thao bất tuyệt trình bày nhiều phương sách, nhiều kế hoạch, tuy không có chỗ dụng, nhưng nghe cũng rất lý thú. Anh rất hợp với lý thuyết gia Nguyễn Đức Quỳnh. Tôi được nói chuyện nhiều lần với anh có Nguyễn Đức Quỳnh, những buổi nói chuyện như thế thật lý thú và bổ ích.

Hà Thượng Nhân viết cho tôi bài thơ trong đó có mấy câu :

Cũng bè cũng bạn chí tình
Ngôi trường Nghĩa Thục công trình chúng ta
Chỉ mong ước quốc gia hưng thịnh
Không a dua không nịnh cửa quyền
Chỉ lo toàn chuyện “ hão huyền”
Không gàn không dở không điên bao giờ
Các kẻ sĩ nào ngờ chạy tới
Góp bàn tay cùng với anh em

Gương xưa Nghĩa Thục vẫn thèm
Phát huy trí dục lại đem ra bàn
Tôi cũng dự vào “ màn” tổ chức
Chu Tử càng nô nức say sưa
Liệu ơi, chuyện ấy tuy xưa
Nhưng mình vẫn tưởng như vừa mới đây
Bao chuyện lớn ta xây ta đắp
Chỉ mong rằng cùng khắp Việt Nam
Những người thiện chí gắng làm
Lẽ nào mình lại đành cam đứng ngoài.
31-6-2007
Hà Thượng Nhân
( Trích hồi ký Đời Tôi trang 720 của Nguyễn Liệu )

Kết luận

Tôi xúc động khi viết về anh Hà Thượng Nhân mà theo tôi là nhà thơ lớn của thi đàn Việt Nam. Anh làm thơ rất nhiều. Anh làm thơ rất nhanh gần như xuất khẩu thành thi.
Anh sống có tự do. Khi cảm thấy mất tự do anh từ bỏ hẳn đi tìm nơi có tự do để sống
. Với tính chất tự do phóng khoáng đó, anh sống ở Miền Nam Việt Nam trong quân ngũ phục vụ chế độ, nhưng lúc nào anh cũng thẳng thắn phê phán “ Đàn ngang cung” của anh là vũ khí sắc bén anh phê phán những bất công những tệ đoan vô lý trong xã hội anh đang sống.
Trong cảnh lao tù, nhân cảm khái Tỳ bà hành của nhà thơ lớn Bạch Cư Dị đời thịnh Đường, anh viết bản trường thi trên bốn trăm câu gởi gắm nỗi lòng của mình cùng tinh thần bất khuất của một người quốc gia yêu nước chống cộng sản. Hiện nay tuổi trên 90 tinh thần vẫn còn minh mẩn, vẫn làm thơ, vẫn bạn bè tha thiết.
Tắt một lời, tôi có thể nói Hà Thượng Nhân là một nhà thơ lớn yêu nước, những lời thơ của anh mãi mãi còn với người Việt Nam.

Nguyễn Liệu ( trích trong “ Kỷ niệm về thi sĩ Hà Thượng Nhân”-Văn đàn Đồng Tâm xuất bản 2010- trang 203 ) 

 

19675.jpg

 

Thông Báo Của Cơ Sở Thi Văn Lạc Việt

Chúng tôi xin báo tin buồn đến toàn thể quý vị là Nhà Thơ Hà Thượng Nhân Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn của VTLV và Thi Văn Đoàn Bốn Phương đã từ trần lúc 7 giờ 45 phút tối ngày Thứ Ba 15 tháng 10 năm 2011 nhằm ngày rằm tháng 9 năm Tân Mão tại San Jose.

Trong giờ phút lâm chung bên cạnh gia đình con cháu, Các nhà thơ Trường Giang, Mạc Phương Đình và Ngọc Bích hiện diện cầm tay tiễn biệt tại bệnh viện Regional Medical Center San Jose.

Sáng sớm hôm nay vì nhà thơ bất tỉnh nên phải gọi 911 đưa vào nhà thương cấp cứu. Buổi chiều mạch và hơi thở đều hơn nên bệnh viện đưa ra phòng bệnh nhân thường và cho thăm viếng. Hồi chiều Cha Cường đến làm lễ và cho chịu phép thánh thể, xức dầu thánh.

Cáo phó và chương trình tang lễ sẽ được gia đình thông báo sau. Khi nhận được, chúng tôi sẽ chuyển đến quý vị để tùy nghi.

Trên trang Web của Văn Thơ Lạc Việt sẽ mở trang đặc biệt về Hà Thượng Nhân để gom tất cả bài vở, điện văn chia buồn của Thi Văn Hữu khắp nơi, sau đó sẽ được chuyển đến tang gia để tường hoặc đọc lên trong tang lễ. Xin quý vị gửi về E-Mail sau: cosovantholacviet@yahoo.com RE: Tưởng Nhớ TS Hà Thượng Nhân. Xin viết ngắn gọn và dễ đọc, hoặc quý vị chuyển thẳng vể trang web VTLV https://www.vantholacviet.com/

Trong giờ phút bối rối này, chúng tôi chỉ thông báo sơ khởi đến quý vị. Sau này có gì thêm chúng tôi xin bổ túc.
Trân trọng kính chào và chúc quý vị Vạn Sự Bình An

Cơ cơ VTLV/Đông Anh 

 

Nhà Thơ HÀ THƯỢNG NHÂN Đã Ra Đi

QUẬN CAM 11-10 (NV) – Nhà thơ Hà Thượng Nhân, tức Trung tá Phạm Xuân Ninh, nguyên Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến của Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị, QLVNCH, đã từ trần tại San Jose, Califonia lúc 7 giờ 45 phút chiều Thứ Ba, 11 tháng 10, 2011, thọ 91 tuổi.

Nhà thơ Hà Thượng Nhân tên thật là Hoàng Trinh, người làng Hà Thượng, tỉnh Thanh Hóa, sinh năm 1920, từng dạy học ở ngoài Bắc, năm 1954 di cư vào Nam.

Năm 1955 ông gia nhập Quân Đội với cấp bậc Đại úy, được trao phó trọng trách soạn thảo sách lược Tâm Lý Chiến cho Quân Đội VNCH lúc bấy giờ.

Khoảng 1956, ông cộng tác với Nhật báo Tự Do, Ngôn Luận. Năm 1969, Trung tá Phạm Xuân Ninh trở thành Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến của Quân Lực VNCH, trụ sở đặt trong Cục Tâm Lý Chiến, đường Hồng Thập Tự, Saigon.

Trong sinh hoạt văn hóa tại miền Nam, ông từng được Phủ Quốc Vụ Khanh Văn Hóa mời làm giám khảo Giải Văn học Nghệ thuật tòan quốc, bộ môn Thơ.

Hà Thượng Nhân làm thơ rất nhanh, và rất nhiều, nhưng ông để lại chỉ có hai thi phẩm: Bên Trời Lận Đận, và Thơ Hà Thượng Nhân.

http://motgocpho.com/forums/image.php?type=sigpic&userid=18&dateline=1188265964

http://www.lelefloral.com/products/sympathy/sprays/S1005.jpg

 

Một Vài Nét Sinh Hoạt Văn Nghệ Với Các Văn Thi Hữu Của Cụ Hà Thượng Nhân:

Hà Thượng Nhân – Đối Thoại Với Cuộc Đời Qua Thi Ca

http://1.bp.blogspot.com/_0LKrAUOm_Sk/SwEaKcRMjpI/AAAAAAAAAT4/yz6xL8qI3QE/s400/HaThuongNhan.jpg
Nhà thơ Hà Thượng Nhân ghé bên dòng suối thi văn để thưởng ngoạn vui chơi và trút trao nổi niềm tâm sự. Trong khi một số văn nghệ sĩ khác thí nghiệm hoặc lao mình vào một số danh từ thời thượng hoặc tìm cái lạ qua những cách ngắt câu bất ngờ hay những cú sốc trong ý tưởng, thơ của Hà Thượng Nhân không câu nệ vào hình thức. Ông đi tìm chiều sâu của tâm hồn. Thi phong của Hà Thượng Nhân có nét sâu kín thầm lắng không phô trương, mang tâm hồn bình dị chân phương.

Qua thơ của ông người đọc thấy dáng dấp của một tâm hồn hiền hòa, đôn hậu, nghiêm túc không đùa cợt với chữ nghỉa. Có nhiều lúc trong thơ ông, người ta bắt gặp một khóe tâm sự hoài mong, chút mặn nồng với nắng mưa kỷ niệm, và thấp thoáng đâu đây bóng dáng của Lảo Tử và Trang Tử đang phất quạt coi nhẹ hiện tại để hướng về một miền tâm linh nào đó xa hơn bên ngoài tinh cầu này. Nhà thơ Hà Thượng Nhân ngân nga và trải dài tiếng lòng của mình với cuộc đời qua thi văn. Nói một cách khác, người thơ Hà Thượng Nhân đang đối thoại với cuộc đời qua thi ca.

Bước vào tuổi hạc, thật khó mà tưởng tượng nỗi ông là tác giả của những dòng thơ man mác với cảm xúc mượt mà, trẻ trung, và tinh diệu. Nét chân phương thanh thoát lồng trong súc tích của ngôn từ. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng lòng qua thơ của ông:

Sắp sửa thu rồi người nhớ không?
Ta về nghe gió thổi đầy sông
Nghe dường mây trắng trong thơ cổ
Phơ phất bay như ngọn cỏ bồng
(Hà Thượng Nhân, Mơ Hồ, 2009)

Ta về nghe gió thổi đầy sông. Bình dị quá, mà sao man mác vi vu hoang mạc. Lời thơ buông nhẹ như nốt dương cầm buông lơi. Tuy đồng hành với các nhà thơ tiền chiến khác như Hữu Loan, Văn Cao, Hà Thượng Nhân cho thấy ông không bị đóng khung trong các ước lệ về “nét đẹp” và tính lãng mạn của dòng thi ca tiền chiến. Nét đẹp trong ca khúc Thiên Thai đầy tính siêu thực của Văn Cao như:

Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào nguyên…

Cho ta thấy một ý niệm đầy ước mộng vượt thoát khỏi hiện tại của thi ca tiền chiến. Tuy cũng vương mang một chút gì hững hờ với thực tại, lời thơ Hà Thượng Nhân khác mới hơn ở những diễn biến nội tâm với chút khắc khoải, hoài niệm; trực thoại hơn là bao bọc bằng lớp vẹt ni bóng loáng:

Cỏ đã vàng theo những bước chân
Môi son đã nhạt vẻ ân cần
Nhìn sâu đáy mắt hồ Than Thở
Tưởng vẫn ngày xưa, vẫn cố nhân
Người cố nhân ư ? Ta muốn hỏi
Ồ ly rượu ấy một mình say
Trong say ta thấy lung linh nắng
Tóc xõa bờ thon chặt
nắm tay

(Hà Thượng Nhân, Mơ Hồ, 2009)

Hình ảnh “cố nhân” ở đây, chính là chút hoài niệm. Một nổi niềm uẩn ức, không trọn vẹn. Có một hố thẵm, một mất mát, hư hao nào đó mà người thơ Hà Thượng Nhân đã không lấp đầy nó được. Giữa hiện tại và quá khứ vẫn còn một giòng sông vô hình chảy qua và chia cắt. Có lẻ người thơ đang muốn mang chúng ta về với quảng đời êm đẹp ngày xưa:

Ta gối tay nằm biết nhớ ai
Nhớ đồng lúa chín, nhớ sông dài ?
Phải rồi, ta nhớ, hình như nhớ
Một mảnh trăng non lá trúc cài
(Hà Thượng Nhân, Mơ Hồ, 2009)

“Một mảnh trăng non lá trúc cài” nghe như tiếng lòng từ vô thức, mang chúng ta về với giai đoạn thanh bình ngắn ngủi sau khi đất nước chia đôi, trước khi nỗ bùng cuộc binh biến đưa đẩy đến những hoang tàn.
Sau cuộc đổi đời 1975, nhà thơ Hà Thượng Nhân thấm thía tê tái trong hồn với những thương tích cay đắng lê thê trong trại tù cải tạo trên đất Bắc. Từ xứ Mỹ xa cách quê hương ngàn dặm hằng nữa tinh cầu, ông nhớ về thành phố Sài Gòn yêu dấu của kỷ niệm xưa bằng nhừng lời xót xa:

Người ta lên mặt trăng
Mặt trăng gần quá nhỉ!
Anh muốn về Sài Gòn
Sài Gòn xa đến thế!
Sài Gòn xa hơn trăng
Trăng đêm đêm vẫn thấy
Lòng anh, em thấu chăng
Thấm trên từng trang giấy
(Hà Thượng Nhân, Nhìn Trăng)

Như nhịp cầu nối dài các thế hệ sáng tác qua các biến động lịch sử, thơ ông chứa đựng tâm huyết và u uẩn của giới sáng tác thi ca hải ngoại. Phải chăng vì vậy mà ông còn được gọi thêm là Hà Chưởng Môn. Phất phơ tuổi hạc mà ông vẫn ghé bến thơ với những dòng thi văn phong phú, thanh thoát, nhẹ nhàng không câu nệ. Bao nhiêu bài thơ của ông trải ra ngòi bút tự nhiên không gò bó, như nhịp đập con tim, như hơi thở, như cảm xúc nguyên sơ. Đây phải chăng là lý tưởng nho giáo thanh lịch, nhập mà như đã thoát. Ông bay cao bằng đôi cách trí tuệ của tâm hồn thi nhân qua lời thơ của ông:

Không cần thép, thơ vẫn là bó đuốc
Thơ nâng người cao sát với thần linh

Hà Thượng Nhân sáng tác rất nhiều thơ với nhiều thể loại: lục bát, đường thi thất ngôn bát cú, ngũ ngôn, song thất lục bát, cổ phong trường thiên, thơ mới, thơ phá thể… Người viết bài này chỉ muốn phát họa những nét chính yếu đáng kể theo cảm xúc của riêng mình. Hi vọng trong cái thiếu sót của nhãn quan qua “lượng”, người viết nêu lên phần nào nét đặc thù về “phẩm” với dấu ấn của một thi sĩ miền Hà Thượng, mang tên Hà Thượng Nhân.
Cát Biển 
 

BUỔI GẶP GỠ CỦA NHÀ THƠ HÀ THƯỢNG NHÂN VÀ THÂN HỮU SAN JOSE.

http://www.vietbang.com/photos/photos/1/1211.jpg


Một buổi gặp gỡ của NT Hà Thượng Nhân và các thân hữu được tổ chức tại hội trường Vivo 2260 Quimby Road, SAN JOSE – CA từ 13:30PM – 5:30 ngày CHỦ NHẬT 19 tháng 12 năm 2010. Gần 200 người – phần lớn là Văn nghệ sĩ và nhóm hoạt động văn hóa vùng vịnh đã đến tham dự buổi họp này.
Ông rất xúc động và ngạc nhiên khi trưởng nữ Phạm Hoàng minh Phi giới thiệu ông trước cử tọa và tặng ông Thi tập “Thơ Hà Thượng Nhân” vừa lấy từ nhà in, còn thơm mùi mực.


Ngồi trên xe lăn, ông cảm ơn những người trong gia đình và bằng hữu đã quan tâm tới ông và cũng nhắc đến một số bằng hữu xa xưa của một thời vàng son không còn nữa. Giọng nói của ông rất rõ, lời phát biểu mạch lạc chứng tỏ ông vẫn còn một trí nhớ tốt mặc dầu năm nay đã 91 tuổi…

Hà Thượng Nhân – người làng Hà Thượng, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa sinh năm 1919, tên thật – Hoàng Sĩ Trinh.

Năm 1952 về Hà Nội, Ông đổi tên Phạm Xuân Ninh.

Năm 1954, di cư vào Nam, Ông gia nhập Quân đội với cấp bậc Đại úy đồng hóa.

Ông được giải ngũ trước năm 1975 với cấp bậc Trung tá nhưng vẫn trải qua một quá trình học tập cải tạo 8 năm…

Năm 1990, Ông định cư tại Mỹ theo diện H.O.

Cuộc đời ông như một huyền thoại nhưng cũng hàm chứa một vài nghịch lý:

– Thơ làm cả chục ngàn bài nhưng người thơ đôi khi vẫn được gọi là nhà thơ không tác phẩm.

– Buổi giới thiệu tác giả và tác phẩm “Thơ Hà Thượng Nhân” cũng hơi khác người:

*Tác phẩm không bán mà chỉ dùng để tặng các bạn yêu Thơ.

*Tác phẩm đã xuất bản mà tác giả không biết.

Người yêu Thơ Hà Thượng Nhân không những vì phẩm chất của Thơ mà còn vì nhân cách của tác giả.


Mimi Bui

http://www.vietbang.com/photos/photos/9/1209.jpghttp://www.vietbang.com/photos/photos/0/1210.jpg

Cụ Hà và tôi

Cẩm An Sơn

http://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2011/07/ha_thuong_nhan.jpg?w=273&h=185
Thi sĩ Hà Thượng Nhân

Nói về Cụ Hà Thượng Nhân, nhiều bạn bè tôi nơi đây, có thể tưởng tôi quen biết Hà Chưởng Môn đã lâu rồi, vì thường những lần tham dự những sinh hoạt văn hoá, văn nghệ tại địa phưong San Jose, lúc nào có ông Cụ thì cũng có tôi lè kè theo làm tài xế, hay phải dắt tay, đỡ lưng ông Cụ lúc lên xuống xe, lên xuống lầu, trông giống như bố với con, hay như là bạn vong niên thân thiết. Nhưng thực tế thì lại khác, tôi chỉ mới được quen biết Cụ Hà- cây đại thụ trong làng Thơ mà tôi đã từ lâu ngưỡng mộ – từ hơn mười năm nay, như một cái duyên trong đời, sau khi định cư ở cùng một thành phố với Cụ.

Ngày trước, vào thập niên 60 ở Sài Gòn, tôi cũng tự khoe với mình là người biết viết văn, làm thơ có nhiều bài đăng trên báo. Nhưng vốn là một anh học trò nhà quê, từ đất Tam Kỳ nghèo khó mới bước chân vào mưu sinh nơi thành phố lớn, tôi mang trong lòng chút tự ti, mặc cảm thua kém, nên đối với những nhà văn, nhà báo có tiếng tăm, tôi chỉ.. ”kính nhi viễn chi”. Với Hà Chưởng Môn, người đã chọn đăng trên nhật báo Tự Do mấy bài thơ của tôi, đã có lần tôi “làm gan” ghé đến Toà soạn xin gặp ông, để được cái hân hạnh nhìn mặt, nói với ông vài lời cám ơn, nhưng rất tiếc lần đó ông không đến toà báo. Cũng khoảng thời gian này, tôi ở chung nhà với anh Tạ Ký – trong khu cư xá Đô Thành – đôi khi anh ấy rủ tôi cùng đi uống rượu với cụ Hà, thường ở những quán bán rượu, bia vùng ngã ba Chợ Đũi. Nhưng tôi vốn đâu có quen uống rượu, nên chưa có dịp nào được gặp cụ Hà. Trong ký ức mơ hồ của một thời Saigòn, tôi chỉ nhớ đến cái tên Hà Thượng Nhân với hàng ngàn bài thơ Đàn ngang cung nổi tiếng., mà các bạn bè trong sở thường đem ra bàn tán hàng ngày trước khi làm việc, thoải mái với những nụ cười từ những dòng thơ châm biếm nhẹ nhàng, về những nhân vật có chức quyền, cùng những thói hư, tật xấu vừa xẩy ra trong chính trường, ngoài xã hội.

Sau cuộc đổi đời, sự may mắn đưa đẩy tôi đến vùng đất mệnh danh là Thung Lũng Hoa Vàng này, để ngày hai buổi lăn lộn với công việc của một công nhân trong nghề lắp ráp linh kiện điện toán, mưu sinh nơi vùng đất mới. Chỉ vài năm, cuộc sống tạm ổn định, được hít thở không khí tự do, hạt máu văn chương, văn nghệ trong tôi đã thức dậy, luân lưu trong trái tim sau gần ba mươi năm ngủ yên, đã thúc đẩy tôi viết văn, làm thơ trở lại. Và nơi đây, trên các tập san, báo chí hàng ngày, hàng tuần tôi lại bắt gặp tên cụ Hà của một thời kính ngưỡng xưa. Hỏi thăm bạn bè mới biết Cụ cũng đã đến định cư tại san José trước tôi vài năm. Chỉ vậy thôi, rồi công việc hàng ngày lại cuốn hút – trong thời kỳ điện toán bùng nổ ào ạt tại Silicon Valley – tôi vào những miệt mài overtime không có được ngày nghỉ ngơi. Nhưng rồi cũng tình cờ vào buổi chiều chủ nhật, một người bạn cùng nơi làm việc, lái xe đến rủ tôi đi dự buổi ra mắt sách của một người làm thơ trẻ chưa quen tên. Lần này, tôi được nhìn thấy cụ Hà Thượng Nhân đứng lên từ hàng ghế đầu của hội trường, lúc ban tổ chức giới thiệu quan khách. Gần cuối chương trình, cụ Hà được mời lên phát biểu. Tay không cầm giấy, tử chiếc micro nhỏ nhắn, tiếng nói của Cụ cất lên, sang sảng. lúc nhanh lúc chậm, dội vào lòng người nghe giữa hội trường im phăng phắc, lưu loát và thuyết phục. Cụ nói đâu khoảng mươi phút rồi chấm dứt với tràng pháo tay vang dội, có lẽ hôm ấy tôi đã vỗ tay sớm hơn và kéo dài lâu hơn, như để chào mừng một người khách quý mà đã bao năm tôi đã ngưỡng mộ, chờ đợi được tiếp đón nhưng hôm nay mới được nhìn thấy, chứ chưa phải được gặp.

Vào những ngày tháng gần cuối của thế kỷ, phong trào in thơ, ra mắt sách dường như theo nhau nở rộ ờ Cali nói chung và tại địa phương San José nói riêng. Tôi cũng nghĩ đến chuyện gom góp những bài thơ cũ, sáng tác thêm những bài thơ mới cho sự hình thành một tập thơ của riêng mình. và thầm ước ao rằng ngày mình tổ chức ra mắt sách sẽ tìm mời cụ Hà Thượng Nhân đến tham dư. Công việc làm của tôi thời gian này cũng tương đối thong thả hơn, tôi mày mò làm quen với computer và bước chân vào thế giới internet. Tôi bắt đầu làm thơ, viết văn bằng cách gõ phím, chứ không còn phài cầm bút viết lên từng trang giấy nữa. Bản thảo tập thơ “Lời Ru Của Mẹ” của tôi, với kỷ thuật tân tiến nó đã được in rõ ràng, sạch sẽ, chứ không giống như như những bản thảo của những văn thi sĩ thế hệ trước. Nhẩn nha đọc lại từng bài, tôi bỗng nảy ra ý định “sao không đem đến xin Cụ Hà Thượng Nhân đọc và sửa chữa cho tập thơ được hoàn chỉnh hơn?” Nghĩ đi là thế, nhưng nghĩ lại cứ băn khoăn, ngần ngừ không biết ông Cụ có chịu đọc và sửa thơ mình k
hông?

Thế rồi cũng từ một tình cờ tôi gặp một bạn thơ, anh ta cho tôi biết địa chỉ của cụ Hà. Tôi còn nhớ rõ, hôm ấy vào thứ hai đầu tuần. sau ngày làm việc về đến nhà, tôi gọi phone cho cụ Hà Thượng Nhân. Khi đã nghe tiếng Cụ “A-lô”, tôi nói liền :

– Thưa bác, em là Ngô, có làm được mấy chục bài thơ, muốn đem đến bác xem, để xin bác vui lòng sửa chửa giúp em những thiếu sót, để hy vọng năm tới em có thể in thành tập để làm kỷ niệm cho bạn bè, cùng để lại cho con cháu sau này..

Giọng cụ Hà mau mắn :

– Được, anh đem đến cho tôi xem, có gì thì tôi góp ý cho anh, chứ sửa thì tôi không sửa đâu, trước nay tôi chưa hề sửa thơ ai bao giờ. Hôm nay tôi rảnh, anh có thể lại chơi..

– Cám ơn Bác, em sẽ đi ngay bây giờ.

Hồi đó, nhà cụ Hà nằm trên đường Cropley, một căn nhà nhỏ nép dưới bóng cây xanh.
Tôi đậu xe trong vuông sân nhỏ với cái cảm tưởng thật xưa, đây là “lều cỏ” của thi bá Hà Thượng Nhân. Cụ Hà mở cửa, nhìn tôi rồi nói với giọng hiếu khách: “Anh vào chơi”. Phòng khách nhỏ, gọn gàng, ấm cúng. Trên bàn xô pha đầy mấy chồng sách và tạp chí. Cụ bảo tôi ngồi và rót trà ra tách. Bộ tách trà Tàu bằng đất nhỏ xíu gợi lại trong tôi hình ảnh các cụ đồ Nho ngày trước. Tôi không muốn làm phiền ông, nên vào đề liền:

– Thưa bác, em đem tập thơ lại đây xin Bác xem giúp, lúc nào rảnh bác đọc cho một vài bài, có thể sang năm em mới in, xin bác vui lòng sửa chửa giúp em những sai sót, vần điệu, niêm luật em còn yếu kém lắm, xin bác đừng ngại.

Vừa nói, vừa trịnh trong bằng hai tay tôi đưa tập thơ cho cụ Hà. Cụ cầm lấy chẳng cần nhìn qua, thuận tay gác tập thơ lên cái kệ thấp bên cạnh chỗ cũ ngồi, rồi hỏi:

– Anh là người Quảng Nam hả?

– Dạ, quê em ở Tam Kỳ, hồi Tổng thống Diệm cắt ra thành Quảng Tín.

– Vậy thì chắc anh biết Vũ Ký, Vũ Hối.., Vũ Ký trước kia là bạn học với tôi ở Hà Nội.

Giọng Cụ trầm ấm, thoáng chút mơ màng về những kỷ niệm cũ. Phần tôi, vốn là người vụng về trong giao tiếp, nên chỉ ngồi nghe ông lan man nói về những nhân vật mà ông quen biết ở đất Quảng như Bùi Giáng, Tạ Ký…

Trời cuối năm, mới khoảng 6 giờ chiều đã muốn tối. Tôi đứng dậy xin phép ra về, ông Cụ cũng đứng lên đưa tôi ra cửa, tôi nhắc lại :

– Tập thơ của em in một mặt giấy, xin bác cứ ghi thẳng vào đó những chỗ cần thay đổi, sửa chửa. Em chưa có điều kiện in tập thơ này trong năm nay, xin bác cứ thư thả xem giúp em, năm bảy tháng sau, lúc nào xong bác gọi em, em có ghi sẵn số phone trong đó, lúc ấy em sẽ đến xin lại. Được bác xem và sửa chửa cho những bài thơ của em là điều rất vinh hạnh, em luôn kính trọng bác là bậc thầy trong văn thơ, xin bác đừng ngại.

Trên đường lái xe về nhà, tôi cứ bâng khuâng suy nghĩ, chắc cũng còn lâu ông già mới dòm đến tập thơ của mình. Tuy nhiên trong lòng cũng thấy vui, vì được cái hân hạnh gặp một thi sĩ mà từ lâu mình đã ngưỡng mộ, nhưng chưa có dịp được ngồi nghe ông lan man câu chuyện một thời vang bóng cũ.

Ngày hôm sau, thứ ba, tôi đi làm về đến nhà khoảng bốn giờ kém. Vừa cởi chiếc áo công nhân màu xanh chưa kịp treo trên móc, thì có tiếng chuông điện thoại reo, tôi cứ thong thả mắc áo xong và tự hỏi ai mà gọi vào giờ này nhỉ – thường anh em bạn bè hoặc người thân gọi nhau vào buổi tối – nhắc chiếc phone lên, tôi nghe cái giọng Bắc trầm ấm của cụ Hà vang trong máy

Anh Mạc Phương Đình phải không? Tôi, Hà Thượng Nhân đây. Khá lắm, thơ anh khá lắm – giọng Cụ dồn dập

– Tối hôm qua tôi đã đọc hết tập thơ của anh, thơ rất cảm động. Thơ anh viết làm tôi nhớ đến mẹ tôi, và tôi viết mấy câu để tặng anh đây, tôi đọc luôn cho anh nghe nhé,

Và không cần đợi tôi trà lời. giọng cụ Hà tiếp tục vang lên từ đầu dây bên kia :

Cám ơn

“Tôi vốn yêu thơ từ thuở nhỏ
Người cho xem thử mấy lời ru
Lời ru của mẹ qua năm tháng
Dựng lại vầng trăng thuở ấu thơ
Tóc đã bạc rồi, lòng vẫn trẻ
Vẫn buồn như lá buổi tàn thu
Lời ru của mẹ, lời ru ấy
Có rối cùng chăng tóc Nguyễn Du?
Có những đêm trường thao thức nhớ
Lời ru còn nhớ đến bao giờ?
Mẹ tôi mới đó không còn nữa
Sao tiếng ru kia lại bất ngờ
Xin cám ơn ai người tuổi trẻ
Nhắc nhau trên những bước bơ vơ
Rằng còn sông núi, còn quê mẹ
Còn khói lam xanh, bóng nguyệt chờ
Còn bến sông Hương hò mái đẩy
Còn tà áo trắng nón nghiêng hờ
Còn con đường cũ lung linh nắng
Còn những bàn tay bát ngát thơ.
Tôi đọc bỗng dưng tôi gấp sách
Hỏi người câu hỏi rất ngu ngơ…

Tối nay gối sách kê đầu ngủ
Tưởng gối tình nhau thuở học trò
Tưởng vẫn thơ mình ngày thuở ấy
Cám ơn trời đất những cơn mơ.

(Hà Thượng Nhân)

Tôi nghe cụ Hà đọc một hơi dài mà tay nắm phone của tôi run lên vì cảm động, dường như giọng của Cụ mềm lại trong những câu thơ cuối. Tiếng Cụ ngưng lại. Tôi chưa kịp nói lời cám ơn thì Cụ tiếp :

– Bây giờ thì anh có thể lên tôi để lấy tập thơ về.

– Dạ, cám ơn Bác, em đi ngay bây giờ.

Suốt buổi chiều hôm đó, cho đến gần tám giờ tối, tôi ngồi nghe Cụ Hà say sưa nói chuyện về thơ cũ, thơ mới, với những kỷ niệm thời Cụ đi học ở Hà Nội, Cụ theo kháng chiến, Cụ quay về vùng Quốc gia, và những văn thi sĩ thân quen…, cho đến khi Cụ Bà dọn cơm ra.

Trước khi ra về, tôi xin phép Cụ cho được in bài thơ “Cám Ơn” vào tập “Lời Ru Của Mẹ”, Cụ cười bảo :

– Bài thơ tôi viết tặng anh, vậy anh muốn làm gì thì làm.

Cụ trao lại tập bản thảo có kẹp tờ giấy với những dòng thơ Cụ đã viết.

Bài “Cám Ơn” của Hà Chưởng Môn được in trang trọng trong những trang đầu, như những dòng “Cảm đề” cho tập thơ tôi, là món quà tinh thần quý giá mà tôi rắt hân hạnh nhận được từ một Lão Thi Sĩ, một trong số ít ỏi những bậc Thầy cùa làng thơ Việt Nam mà tôi đã yêu kính, ngưỡng mộ.

Cẩm An Sơn 

THI SĨ CHƯỞNG MÔN HÀ THƯỢNG NHÂN CHỊU PHÉP THÁNH TẨY.

 

THI SĨ CHƯỞNG MÔN HÀ THƯỢNG NHÂN CHỊU PHÉP THÁNH TẨY.

Câu thơ văng vẳng tâm còn động
Hương rượu nồng nàn mắt vẫn cay
Chữ nghĩa văn chương ngoài cánh cửa
Đời người như thể gió mây bay

 

Thơ văn của các văn nhân, thi sĩ gởi thăm cụ Hà Chưởng Môn.

Hôm nay là một ngày trọng đại. Phép lạ của Chúa Thánh Thần đã đưa ân sủng đến San Jose.Tháng Bảy vừa qua, một tháng đáng ghi nhớ đối với người đàn anh khả kính của chúng tôi, một tháng sảy ra bao chuyện đổi rời.
Ðầu tháng Bảy người bị té. Chuyện té đối với người như cơm bữa. Tuần phải té vài ba lần. Mỗi lần té tuy không đứng dậy phủi tay, nhưng cũng không có gì trầm trọng. Lần té tháng bảy này khác, nặng hơn nhiều. Nặng đến nỗi phải cấp cứu vô nhà thương. Vào nhà thương phải vá đầu lại, may mấy mũi phía sau ót. Cũng vì mấy mũi may này là đầu ngứa nên phải xuống tóc. Sau nhà thương người được chuyển về nhà an dưỡng ở đường Alvin. Tưởng rằng phải nằm đây vĩnh viễn nên người gọi anh em phải cứu người ra khỏi nurshing home. Cũng may, sau ba ngày người được cho về nhà. Về đến nhà, người tỉnh táo, gần như trở lại bình thường.
Trong suốt thời gian trên, từ tư gia đến bệnh viện, qua nhà an dưỡng, lúc nào bên giường nằm cũng có người thăm hỏi, từ cháu con trong gia đình, em út trong các thi văn đoàn đến bằng hữu khắp nơi đổ về. Tuy không nói được nhiều nhưng ánh mắt lộ phần cảm động và hạnh phúc. Trên mạng, các thư thăm, thơ họa chúc sức khỏe bay về tới tấp trên điạ chỉ của Văn Thơ Lạc Việt mà người làm cố vấn. Mọi người đều muốn bày tỏ tình yêu thương đối với người.
Nằm dưỡng bệnh tại gia, người được một người khách thân tình quen biết cũ đến thăm và từ đó một phép lạ sảy ra. Linh mục Cao Phương Kỷ là người khách thân tình của hơn mười năm trước. Mỗi lần về San Jose cha đều đến thăm mang những lời an ủi khích lệ cho nên mới có buổi hôm nay.
Hơn chín mươi tuổi, suốt đời sống trong sự nghiệp thi ca, đã để lại cho nền văn học hơn 10 ngàn bài thơ. Bài ngắn 4 câu, bài dài 300 câu. Với hơn 100 ngàn câu thơ ấy thì chứa đựng biết bao tình. Tình nhà, tình nước, tình bè bạn, tình yêu cho hết thảy mọi người. Người ca tụng và ban phát tình yêu. Nhưng tất cả tình yêu ấy dù có gom lại cũng không bằng tình yêu cao cả mà người đón nhận hôm nay . Tình yêu Chúa thể hiện trên muôn loài, nhưng tình yêu đặc biệt của Chúa vẫn dành cho Hà Thượng Nhân trong ngày đặc biệt này. Từ cuộc sống bình thường, anh Phạm Xuân Ninh đã đón nhận tình yêu Thiên Chúa trong tâm linh để có một đời mới, hướng đi mới, suy tư mới và những vần thơ mới.
Bóng cây Cù Mộc và Quế hòe đã từng che bóng mát cho gia đình, cho con cháu và cho cả anh em bằng hữu. Nay Cù Mộc, Quế Hòe được lãnh nhận ánh sáng mặt trời huy hoàng soi rọi sẽ lớn hơn, mạnh hơn để tỏa bóng ra khắp mọi nơi, mọi chốn như ân sủng người lãnh nhận hôm nay.
Xin ơn trên phù hộ chúng ta.

Ðông Anh

 

hiohjiphjiopjopjopjopop.png

Chúa không lầm

Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con
Dêm mẹ hoài thai đã vương tội lệ
Tội dài mạch sông tội sâu đáy bể
Tội tình con lỡ phạm trước nhan Ngài
Xin dùng cành hương thảo nhẹ ra tay
Bùn nhơ nhuốc sẽ trắng trong hơn tuyết
Dúm xương mục nghiền tan lòng mộ huyệt
Được nhẩy mừng ca tụng ánh dương quang
Bởi con là con cái Chúa cao sang
Tình Yêu Chúa lớn lao hơn Tội Lỗi
Mở cho con đường thiêng liêng sám hối
Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con
Nẻo trần gian bước mỏi chẳng cô đơn
Con bên Chúa Chúa dìu con dặm thẳm
Hồn yếu đuối đựng xác thân chĩu nặng
Nụ hôn nào thiêu đốt trọn thịt da
Tai điếc miệng câm đôi mắt mù lòa
Tê đầu lưỡi biết vị nào đắng ngọt
Cõi u mê ngỡ thiên đường vang hót
Lời uyên ương đắm đuối kiếm tìm nhau
Thủa ban sơ tình cuối gọi tình đầu
Hoa nửa buổi ngỡ hoa lòng bất tử
Tình một đời tưởng đỗ bền muôn thủa
Cõi tạm nào chẳng một thoáng chiêm bao
Dẫu thắm tươi ngàn hoa lựu hoa đào
Con đường hẹp chính con đường sự sống
Đường quê trời mở thênh thang cao rộng
Gót chứng nhân mạnh mẽ vượt ngàn non
Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con
Băng Đình
29-7-2009 

 

Thăm thi sĩ Hà Thượng Nhân

Đông Anh

Ngày thứ Tư vừa qua chúng tôi lên nhà thương Regional Medical Center San Jose thăm nhà thơ Hà Thượng Nhân. Lúc đó khoảng 11 giờ sáng. Hỏi tên họ tại phòng tiếp tân, chúng tôi lên thẳng lầu 3 phòng 311.
Ngày Thứ Hai, điện thoại nhà Anh Hà bận liên tục khiến chúng tôi không liên lạc được. Thường ngày đầu tuần anh em thuộc cơ sở Văn Thơ Lạc Việt hay lên thăm bậc trưởng thượng và mời anh đi ăn trưa. Mỗi lần mời anh đi ra ngoài phải có hai người đi kèm để anh khỏi ngã. Tháng trước nhà văn Thanh Thương Hoàng chở anh ra ngoài, khi anh mất thăng bằng, ông Hoàng chạy tới đỡ khiến hai người cùng té, vì vậy mấy độ sau này ít người đến mời anh đi ăn trưa. Ai cũng ngại không đủ sức đỡ anh.
Ngày hôm sau, thứ Ba chúng tôi điện thoại lên thăm nhà thơ Hà Thượng Nhân mới hay anh đang nằm nhà thương. Con anh cho biết ngày hôm qua phải gọi xe cứu thương đưa anh vào nhà thương vì bí tiểu.
Ngày thứ ba, khi chúng tôi tới thăm, anh vẫn phải thông tiểu bằng ống dẫn từ bàng quang ra ngoài. Anh cho biết mỗi lần y tá đặt ống thì đau lắm. Bây giờ giữ cái ống theo người thật là khó chịu, chỉ muốn giật ra thôi.
Cô con gái tên Thục mới từ Oklahoma qua thăm và săn sóc bố. Mỗi lần anh khát nước, cô Thục phải nâng giường lên cao, để ống hút vào miệng cho bố hút. Chỉ nhắp một tý thôi đã sặc rồi, con vội vàng hạ giường xuống để bố thở. Cô chăm sóc tận tình, nói năng từ tốn nhẹ nhàng. Cô cũng cho biết chiều hôm qua mẹ có ở đây với ba, đút súp cho ba ăn làm cho cơn đau của ba dịu đi.
Cô dịu dàng hỏi ba có biết ai đến thăm ba không? Anh nói biết, nhưng tôi cũng tự giới thiệu và trình diện mọi người với anh. Khi đưa cuốn đặc san Lê Hoa Xuân Kỷ Sửu 2009 do Cụ Lê Duy Hồng từ San Diego biếu nhờ chuyển đến anh, anh vội mở trang tìm bài thơ của anh gửi đăng. Anh tìm vậy thôi chứ đâu có thấy gì, tôi phải lật trang có bài thơ Xuân Vẫn Còn Đây đưa anh xem. Anh không đọc được. Một con mắt bên phải đã không còn nhìn thấy sau khi bác sĩ mắt điều trị bằng tia laser. Con bên trái chỉ thấy lờ mờ. Nhìn dáng người, nghe tiếng, đoán được là ai nhưng xem chữ thì không thấy rõ được.
Anh nói với chúng tôi về tuổi thọ của Cụ Hồng, hội trưởng hội Lê Tộc, năm nay cũng 96 tuổi rồi mà còn chịu khó và minh mẫn làm đặc san Xuân hàng năm. Chợt anh nhìn lên và hỏi anh này là Trầm Tử Thiêng phải không? Tôi vội vàng đính chính đây là nhà thơ Phan Tưởng Niệm ở San Jose, Trầm Tử Thiêng đã đi lâu rồi.
Tôi hỏi ban đêm nằm buồn một mình anh có làm thơ không. Có chứ. Anh cho nghe vài câu đi. Quên rồi. Những câu thơ làm ra và quên đi trong khoảnh khắc chắc phải là những câu thơ xuất thần!
Anh nằm nhìn lên trần nhà nói chuyện văn chương về Võ Phiến, về báo Tự Do, về báo Tiền Tuyến, về Sài Gòn. Các chuyện anh nói không liên tục, không mạch lạc. Đang nói về Võ Phiến lại chen chuyện Chu Tử vào. Anh cứ nói không cần có người nghe. Chúng tôi đưa đẩy câu chuyện để anh có dịp nói. Thấy anh nói say sưa, đôi mắt lấp lánh sau mỗi câu chuyện, khuôn mặt rạng rỡ như đang sống lại kỷ niệm xưa. Tất cả chúng tôi cố gắng nghe nhưng không hiểu vì tiếng được tiếng mất, song cũng lây cái hạnh phúc mà anh đang có. Không ai nỡ cắt, không ai nỡ bỏ đi. Anh nhấp chút nước rồi lại lan man nói tiếp.
Tôi mời anh đi họp với Văn Thơ Lạc Việt, cô Thục hỏi anh có đi không, anh trả lời đi chứ rồi hỏi ai đến đón. Chinh Nguyên. Ờ được.
Ngày Thứ Năm 16 tháng 7, nhà thương RMC đưa anh về thẳng nhà an dưỡng do bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi làm chủ ở đường Alvin, San Jose.
Nơi này hơn mười năm trước tôi đã đưa anh đến thăm một người bạn hàng xóm ở Sài Gòn năm xưa. Anh Đỗ Hữu Bài người cùng khóa Cương Quyết Võ Bị 54 với tôi, anh bị cơn đột quỵ năm 1987 sau đó vào an dưỡng tại đây. Anh ở đây tới khi mất vào năm 2000, tính ra 12 năm có lẻ, người trụ trì dài kỷ lục ở nhà an dưỡng. Anh đã từng chứng kiến những người bạn Việt Nam vào sau đi trước rất nhiều. Ở đây anh thèm đủ thứ. Thèm mùi nước mắm, thèm phở, thèm lá húng quế, thèm bóng vợ con, thèm tình b&e
grave; bạn. Cũng tại nơi này anh Hà Thượng Nhân đã đến dự sinh nhật của nhà văn Phạm Huấn và nhà thơ Hoàng Anh Tuấn do em của Phạm Huấn là Phạm Hùng tổ chức cho anh mình. Cũng từ nơi này Hoàng Anh Tuấn và Phạm Huấn đã ra đi.
Bây giờ anh Hà Thượng Nhân lại đến đây như một cái vòng nhân sinh của tạo hóa bầy ra dẫn tới. Có lần anh nhắc tới nurshing home và mong được vào đó như là niềm vui lúc tuổi già. Không biết anh còn nghĩ đó là niềm vui hay không.
Chiều Thứ Năm, lúc 7 giờ, nhà thơ Chinh nguyên thay mặt anh chị em Lạc Việt vào thăm thi sĩ Hà Thượng Nhân, cố vấn tối cao. Anh nằm trong ánh sáng mờ ảo của căn phòng, ngủ như mê, phải gọi mãi mới tỉnh dậy. Phòng 104 ngay cánh trái của khu an dưỡng. Không có điện thoại mà nếu có anh Hà cũng không nghe được, nhưng bằng hữu đến thăm thì lúc nào cũng chấp nhận. Chỉ cần nghe giọng nói và tiếng cười cũng đủ vui. Chiều Thứ Sáu vào thăm thấy anh đã tỉnh và khỏe hơn nhiều. Buổi sáng chị và các cháu quây quần chăm sóc. Râu đã cạo, tóc đã chải trông quắc thước vô cùng.
Anh bắt đầu một cuộc sống mới. Cuộc sống dần dần xa lánh mọi tục lụy và quên dần chuyện thơ phú văn chương.
Trong cái cảm nghĩ như thế tôi xin mạn phép viết thay anh Hà Thượng Nhân bài thơ như sau:
Vào nhà an dưỡng mấy hôm nay
Chợt hỏi trong lòng tỉnh hoặc say?
Đêm mộng hồn ma chàng Phạm Huấn
Ngày mơ bóng dáng bạn Hoàng Tây*
Câu thơ văng vẳng tâm còn động
Hương rượu nồng nàn mắt vẫn cay
Chữ nghĩa văn chương ngoài cánh cửa
Đời người như thể gió mây bay
"Nhà thơ kiêm đạo diễn Hoàng Anh Tuấn tốt nghiệp từ Pháp nên hay gọi là Tuấn Tây.
Đông Anh
4 giờ sáng ngày Thứ Sáu 17 tháng 7 năm 2009 


Hình ảnh và tin về sức khỏe Hà chưởng môn

 

http://3.bp.blogspot.com/_rU2-jOmF1cg/SnCcZ1O5Y4I/AAAAAAAAAr4/B_l6eOAv9kE/s400/001.JPG

 

http://4.bp.blogspot.com/_rU2-jOmF1cg/SnCb2PJ9a8I/AAAAAAAAArw/hd9-SeEZf_A/s400/005.JPG

http://4.bp.blogspot.com/_rU2-jOmF1cg/SnCbhLvBcbI/AAAAAAAAAro/V_6i77tkQyI/s400/004.JPG

Hình thứ nhất Chả cá Lã Vọng Đoàn Xuân Ngọc và Hà chưởng môn
Hình hai : Cụ bà và Gái Quê đang " bắt " Hà thi lão phải ăn phở ( vì cụ chỉ ăn ít thôi)
Hình ba : Cả hai đồng lõa ép Lão gia phải ăn
Thân kính gửi chung đến các thân thi hữu xa gần,
Thứ hai July -27- 2009 Ngọc Bích đã đi cùng với đàn anh Đoàn Xuân Ngọc ( hỗn danh Ngọc Toét ) đến tư gia của Hà Chưởng Môn và đây là những tin mới nhất về Thi Lão:
Sau khi ở Viện dưỡng lão được ba ngày thì cụ Hà nhất định đòi về nhà lại , cụ cảm thấy không thoải mái ở nơi này, và bác sĩ trông nom về bệnh trạng của cụ cũng đồng ý để cụ về nhà tĩnh dưỡng cùng với 2 người trông nom cụ thường trực ngày đêm thay phiên nhau tuy rằng hiện trạng sức khoẻ của cụ tuy có thuyên giảm và rất có hy vọng bình phục. Dẫu rằng ở tuổi trên chín mươi thì việc hồi phục tuy có chậm chạp thật nhưng khi chúng tôi tới thăm mỗi lần thì đều nhận thấy khả quan hơn và cụ rất vui vẻ, tỉnh táo những lần có bạn bè thân hữu đến thăm và cụ cũng chuyện trò thân mật đồng thời nhắc lại từng kỷ niệm với mọi người. Điều này khiến cho Ngọc Bích nghĩ rằng chúng ta đến thăm và chuyện vãn với cụ cũng là một hình thức góp sức, tiếp tay cho cụ mau lành bệnh. Nói thế có nghĩa rằng chúng ta đến thăm viếng cụ vào thời gian này đã là một món quà tinh thần mà cụ rất yêu thích rồi đó.
Cụ Hà ăn uống bình thường thôi, ăn ít nhưng vẫn ăn theo ý thích với những món quốc hồn quốc tuý như phở , bánh đúc, bún riêu, bánh cuốn v.v cụ không được ăn cơm nhiều vì đường cao.
Sáng thứ ba 28- July- 2009 cụ có ý nhờ bác sĩ Hoàng văn Đức ( nam Cali ) chứng nhận là cụ còn minh mẫn và có ý muốn trở lại đạo vì cụ bà là người bên Thiên chúa giáo . Sau đó cụ và thân nhân cho biết là cụ sẽ làm lễ trở lại đạo vào chiều thứ bảy tuần này nhưng chưa nói rõ là tại địa điểm nào.
Tình trạng sức khỏe của cụ tuy có khả quan coi như đã thoát hiểm, nhưng đôi lúc tỉnh và lẫn cũng vẫn thường sảy ra tuỳ theo người đối diện với cụ và câu chuyện mà cụ theo dõi hoặc nhắc đến. Nhưng có một điều phải nói đến là cụ vẫn giữ đức tính vô cùng quí gía là hòa hoãn, độ lượng ân cần với mọi người đến thăm cụ . Anh Đoàn Xuân Ngọc cũng như tôi đối với cụ luôn cung kính như với một người cha già vậy . Hôm chúng tôi tới thăm là hôm cụ mới đi đi hớt tóc về vì mấy chỗ khâu trên đầu mọc da non nên hay bị ngứa . Chúng tôi gửi đến quý bạn vài tấm hình chụp mới nhất tại tư gia bữa này và vẫn thường xuyên qua lại thăm cụ. Nếu có tin tức gì vui và khả quan hơn về Hà chưởng môn thân tình của chúng ta thì chúng tôi sẽ xin báo đến để gia đình anh em văn nghệ sĩ chúng ta cùng vui nhé.
Đồng thời một nhóm anh chị em trong Thi văn đoàn Bốn Phương và Cơ Sở Thơ Văn Lạc Việt cùng có dự định sẽ tổ chức một buổi họp mặt có tính cách là chúc sức khoẻ Hà thi lão, vừa vinh danh một đàn anh khả kính, vừa như là một sinh điếu khi Hà chưởng môn còn chung vui với chúng ta được.
Điều này tôi có dịp thưa chuyện với Hà thi lão, lâu rồi . Trước thì cụ gạt đi , nhưng sau này thì cụ đồng ý một cách rất vui vẻ và còn mong có dịp gặp lại một số anh em mà cụ nhắc đến tên một cách thân tình như là " Cu này …., cậu nọ… bác kia v.v…dễ có đến bao lâu không gặp, chẳng biết bây giờ ra sao rồi nhỉ "
Do đó cá nhân tôi rất tha thiết đẻ có thể tổ chúc được một buổi họp mặt như thế để hầu đem lại niềm vui nhỏ cho Hà thi lão trong những tháng ngày còn lại .
Xin các bạn vui lòng chung góp công sức để chúng ta cùng vui với nhau và cùng đem lại niềm vui cho vị Thi lã khả kính .
Tình thân và lời cầu chúc sức khoẻ đến Hà chưởng môn và toàn thể gia đình anh em văn nghệ sĩ mà chúng ta cùng có một liên hệ với nhau qua duyên văn nghệ.
Thân kính .
Ngọc Bích
 

Hình ảnh đã đăng

Mt ngày cho tôi
_________________________________________________________________________________________
M
u Hoa Khế

Hôm qua mưa rơi sut c ngày , tri đt u ám tôi ch mun nm trên gường đ ngó ra ca s nhìn mưa bay , mưa rì rào , mưa thì thào . Có thân cây trúc nhánh cao quá nên on mình chìa ngang ca s , thnh thong gió chy qua , nhánh cây gõ lóc cóc vào mt kiếng ging như tiếng gõ ca ca ai đó va đi ngang qua .

Nhưng vào bui chiu tôi phi đi tham d ngày sinh nht ca mt nhà thơ ln được mi người không ch riêng trong gii thơ văn rt kính trng mà còn có nhng người ging như tôi, ch biết đến nhà thơ qua nhng giai thoi được truyn ming , hoc đc trên các din đàn báo chí ,khi h nói v ông vi tt c s trân trong cùng tm lòng thương yêu .

T l&aci
rc;u l
m tôi chng đi đâu , t áo vi nhng chiếc áo đp c nm im v trí , hôm nay được tôi m toang cánh ca , đng chn la tng chiếc , tng màu sc . Lúc còn tr tôi cũng có mt t đ nhưng choán hết phn nhiu là nhng chiếc áo dài bng hàng tơ la . Con gái tui va mi ln , thân hình mnh mai , màu áo nào khi din lên đu cũng du dàng . Ngày xưa có hai màu đ tôi yêu đó là màu tím Huế và màu hoàng yến . Không hiu sao hôm nay tôi li chn cái đm màu trng dài va qua khi đu gi , ôm bó vào người , chn mt đôi giày c cao màu tím hng nht . Khoác mt chiếc áo m màu đen dài ph xung gót chân , li còn quàng thêm mt chiếc khăn quàng màu đ .

Đng nhìn mình trong tm gương ln , tôi rt hài lòng vi s phi màu tht nh nhàng trên người , trên gương mt đim trang tht du vi màu tím bun lên mt .Bt giác tôi buông tiếng th dài khi nghĩ không biết còn bao lâu na thì mái tóc s bc trng màu mây tri, nhng chiếc áo đp được treo theo màu sc lp lang kia , chc ch còn đ li trong vùng ký c nhng ngày vui huyên náo đã qua .

Mưa vn rơi trên đường đi , vn tm t cùng dòng xe c ngược xuôi . Tôi ngi trong xe c lo lng , bn chn . Tôi s mưa to quá thì bui tic người đến tham d s không đy đ như trong thip mi , nhưng tht ngoài ý nghĩ ,khi tôi đến nơi thì mi người đã có mt tht đông đ cht kín c mt hi trường . Nhng gương mt ln ca nn văn hc ti hi ngoi . H đã cùng cô con gái đu ca nhà thơ âm thm sp xếp đ in ra mt tp thơ cho ông , mt nhà thơ có mt s lượng thơ khng khiếp không sao tính bng con s . H nói thơ ông ging như mt cây đi th ngàn năm cành lá xum xuê , thách thc vi c thế h đi sau ông không làm sao vi ti ni . Thơ ông rãi rác khp mi nơi , trên din đàn ,trên báo
chí và cái kiêu ng
o ca ông là ông không bao gi in thơ ra đ bán .

Quan khách đến chúc mng ngày đi th ca ông .H là thân nhân , là nhng người lính , nhng đàn em ngày xưa ca ông và cùng nhng người ngưỡng m . Sau khi quan khách đã vào ch ngi thì hi trường tht yên lng đ lng nghe v thân thế hào hùng ca ông qua s trình bày ca các nhà thơ , nhà báo vi nhng k nim đã tng có trước đây cùng
ông . H
nói v nhng áng thơ tình ca ông nng nàn dành cho v , du dàng cho các con , tâm đc cho bn bè và còn nhng dòng thơ bt khut ca mt k sĩ trước lch s đau thương ca đt nước .

Ông , nhà thơ lão thành vi sc kho còn rt yếu sau mt cơn bnh . Ông ngi trên xe lăn ch có đôi ba li cám ơn quan khách đã đến tham d . Sau đó là chp hình lưu nim vi gia đình con cháu , bn bè và tôi cũng chen chân đng gn bên cnh ông , đ được hãnh din chp chung vi ông .
T
p thơ trên tay ca mi người sau khi có mt ba ăn nh cùng chuyn trò bên nhau .
Đây là m
t tp thơ ca ông đu tiên được in ra vi du đóng màu đ in đm hai ch "không bán " .

Đó là nhà thơ ln Hà Thượng Nhân ca người Vit Nam chúng ta .

Mu Hoa Khế
Dec 19 2010
 

 

bjlbhlhklnklkl.png

 

Tản mạn với thi sĩ Hà Thượng Nhân về thi sĩ Duyên Anh

Khóc Duyên Anh

Duyên Anh
Tôi tiếc biết nhau quá trễ
Hai đứa cùng ở Sàigòn
Cùng chung thế hệ
Mà sao cách biệt muôn trùng?
Tôi đọc anh mỗi chữ, mỗi dòng
Mỗi lúc thấy lòng mình trẻ lại
Mười năm trước đây nghe nói anh viết bằng tay trái
Như nghe tiểu thuyết Kim Dung
Đọc thơ anh tôi xúc động vô cùng
Tiếc không được nói một câu bây giờ tôi muốn nói
Anh là nhà thơ vĩ đại
Là con người chiến đấu, tự do
Tài năng lấy thước nào đo?
Tôi chẳng hiểu vì sao ta vô duyên đến thế?
Bởi từ nhỏ say mê văn nghệ
Yêu người thơ như yêu cuộc đời
Gặp nhau thăm hỏi nói cười
Vẫn không biết đứng trước một nhà thơ vĩ đại
Mê Đỗ Phủ viết Thạch Hào lại,
Mà không thèm biết Duyên Anh!
Tôi thẹn với mình.
Thẹn với tám mấy năm trời lăn lóc.
Bây giờ bỗng nhiên ngồi khóc
Duyên Anh

Hà Thượng Nhân

CA, ngày 8 tháng 4 năm 2005

Ngày xưa tôi tiếc không chú ý đến Duyên Anh vì tôi không ngờ một tài năng như vậy. Tôi đã nói với Vũ Đức Nghiêm: “Giá mà Duyên Anh sống lại, tôi nói với anh ấy rằng tôi cảm phục anh ấy“. Tôi sướng lắm bời vì lúc bấy giờ tôi đã coi thường Duyên Anh bởi những bài viết chuyên “đả kích” ký tên Thương Sinh. Nhưng khi đọc tập thơ này thì tôi cảm nhận được ra Duyên Anh quả thật là một nhân tài. Tôi chưa bao giờ thấy một người nào viết thơ tranh đấu đạt đến bằng Duyên Anh.

Nếu so sánh với Tố Hữu hay Nguyễn Chí Thiện thì sao ạ?

Nguyễn Chí Thiện chưa phải là nhà thơ. Tôi kính phục anh ta vì anh ta là một dũng sĩ nhưng anh ta không phải là thi sĩ. Thơ của Nguyễn Chí Thiện là “matière brute”. Nghĩa là vật còn nguyên khối. Cục vàng là cục vàng thôi chứ chưa được trau chuốt thành cái vòng hay cái xuyến. Thơ đó mới chỉ là khẩu hiệu, là tuyên truyền chứ chưa phải là nghệ thuật.

Tố Hữu là người rất tài. Anh ấy đã nổi tiếng rất sớm vì có lần anh ta cãi nhau với một giáo sư Pháp về chữ Quốc-Gia tức “État” và cho rằng cái “État” mà ông giáo sư Pháp nói là cái “État” của bọn giàu có, bọn tiểu tư sản chứ không phải là của nhân dân lao động, của “Peuple”. Giáo sư Pháp rất tức giận: “Monstrueux communist, asseyez-vous!” (Anh cộng sản quỷ quái kia, ngồi xuống!). Sau đó anh ấy bị đuổi vì đã cầm đầu một cuộc biểu tình chống thực dân để đón Godard, là đại biểu của nước Pháp sang. Về thơ thì Tố Hữu là một người rất tài hoa. Nếu các anh có đọc các bài thơ của anh ấy viết về tranh đấu thì tuy chưa bằng Duyên Anh nhưng mà đạt lắm. Chẳng hạn như bài “Phá đường”. Rõ ràng là hắn nói dối nhưng mình tưởng thật. Cái khó của người có nghệ thuật là ở chỗ đó. Nhiều bài của Tố Hữu vào thời đó thì là giả dối cả nhưng mà cái giả dối đó kinh lắm mới thấy được.

Chứ còn như Duyên Anh chẳng hạn, mấy bài mà anh ấy viết tôi chỉ sợ là báo ở đây không dám đăng thôi: chửi mấy tướng dữ dội quá. Tôi nghĩ rằng chính vì các tướng đó mới mất nước. Bắt người ta đem máy bay đi mua phở cho nhân tình ăn, đúng là có như vậy, thì làm sao mà chống lại cộng sản được? Trong hàng ngũ lãnh đạo của mình, người trong sạch ít lắm.

Ở đời có nhiều khi nổi tiếng cũng là một cái duyên cả. Có những người rất tài hoa, thí dụ như Trần Huyền Trân, các anh có nghe tiếng bao nhiêu đâu, nhưng mà anh ta rất tài hoa:

Nhớ nhau vẩy bút làm mưa gió

Viết thơ đến thế thì ghê gớm lắm. Cũng như thơ Duyên Anh có mấy người biết đến. Vì người ta chưa thấy được. Thường thường thiên hạ nói theo kẻ khác. Nếu anh không nói về Bùi Giáng, về Thanh Tâm Tuyền thì không hợp thời.

Bác từng nhận định : “Thơ Duyên Anh cần thiết phải dịch ra tiếng nước ngoài”. Đã có ai làm chuyện này chưa?

Cô Mai Nguyên khen thơ Duyên Anh rất hay nhưng mà tôi không biết cô ấy có đủ sức dịch không!

Ngoài cô Mai Nguyên, bác có đề cập thơ Duyên Anh đến những người khác?

Có. Tôi có nói với Vũ Đức Nghiêm là một người yêu Duyên Anh lắm. Tôi nói rằng: “Tôi tiếc quá Vũ Đức Nghiêm à. Tôi tiếc là ngày xưa tôi không nói được với Duyên Anh một câu là tôi kính phục cậu. Cậu đúng là một nhân tài lớn của đất nước mà tôi không biết”. Cũng như ngày xưa tôi không biết mấy về anh Phạm Kim Vinh. Chỉ biết anh ấy viết văn nhưng không thấy anh ấy lớn.

Lúc nào thì bác mới thấy giáo sư Phạm Kim Vinh lớn?

Khi sang đến Hoa Kỳ thì tôi mới thấy.

Giáo sư Phạm Kim Vinh cũng là một trong những người rất phục anh Duyên Anh.

Tôi biết. Lúc đọc được các bài thơ của Duyên Anh, tôi phục lắm. Xưa nay chúng ta chưa có một người nào viết thơ đấu tranh bằng Duyên Anh được. Chưa ai.

Ý bác nói về bài thơ “Nhân Danh Những Gì Tôi Biết”?

Tôi xin nói như thế này. Tố Hữu là một nhà thơ có tiếng. Anh ấy tin vào chủ nghĩa cộng sản. Tôi không biết là anh ấy có tin thật không. Lúc đầu thì thơ anh ấy có lửa vì những lời nói chân thành. Về sau thì khác. Anh ấy biến những khẩu hiệu thành thơ một cách rất tài tình nhưng vẫn không che mắt được người ta vì có những sơ hở. Tôi nghĩ rằng Tố Hữu không thể che được cái dối trá của mình. Thơ của Tố Hữu chung chung, không sâu. Anh khóc thật nó khác mà anh khóc giả nó khác ghê lắm. Tố Hữu là một người đóng kịch giỏi. Nhưng mà Duyên Anh thì tôi cho là nhà thơ bởi vì dòng thơ làm cho mình đau đớn lắm. Cái câu thơ mà anh ấy nói về những tướng ăn chơi xa hoa trên đau khổ của người vợ lính, ăn cướp tiền tử tuất của vợ lính, những cái đó ghê gớm quá anh ạ. Mà vô liêm sĩ quá. Mình đọc mình rợn óc lên.

Tại sao cùng một lối viết mà nhà văn Duyên Anh đưa được những hình ảnh trung thực, ghê rợn ấy đến được với người đọc thành công?

Nhờ vào tài năng. Đó là một sự cảm xúc sâu xa lắm. Thí dụ như mấy ông cha, thương Chúa lắm nhưng mà thơ có ra cái gì đâu? Mấy ông sư làm thơ cũng nhiều lắm nhưng mà thơ có ra cái gì đâu? Không thấy chi là Phật cả. Đọc vào mình dửng dưng lắm bởi vì họ nói bằng trí chứ không bằng tâm. Đứa con nít nó nói tuy là rất đơn sơ nhưng có nhiều khi làm cho mình ứa nước mắt ra bởi vì nó nói bằng cả tấm lòng của nó chứ không suy nghĩ.

Chúng ta nói, chúng ta cân nhắc bằng trí óc để thuyết phục kẻ khác. Nhưng mà không thuyết phục được ai đâu. Ngoài ra tôi cũng phục Duyên Anh chỗ này. Ngày xưa Nguyễn Mạnh Côn là đàn anh của Duyên Anh. Duyên Anh phục Nguyễn Mạnh Côn lắm nhưng Duyên Anh cũng đã từng nhiều lần chỉ trích, phê phán Nguyễn Mạnh Côn. Nhưng theo tôi, Duyên Anh đúng. Có lần tôi nói với Duyên Anh: “Cậu đúng vì rằng nhà văn là thế, là nói thật”. Nguyễn Mạnh Côn chưa dám nói sự thật cho nên Nguyễn Mạnh Côn không thành công. Những người có tài ghê gớm ở trong nước như anh Hồ Hữu Tường thế mà vẫn giả, không phải là thật.

Tôi thích thơ Duyên Anh vì thơ Duyên Anh thật. Khi nào anh cảm được, anh không cần biết ai khác, chỉ biết mình thôi. Đó là do mình tự hỏi lòng mình. Nếu mình thành thật, đọc bài thơ với tất cả tấm lòng của mình thì tự nhiên cảm được. Cái hay nhất của Duyên Anh là thế này: nói thật, nói rất thật. Mà cái lớn nhất của nhà văn, nhà thơ là nói sự thật. Vì chỉ có sự thật mới cảm hóa được lòng người. Mãi tới thời gian gần đây tôi mới được đọc những bài thơ của Duyên Anh. Lạ quá! Bài nào cũng hay hết anh nhỉ. Giá mà được gặp các thi sĩ Mỹ dịch thơ Duyên Anh thì hay biết mấy.

Tại sao nhiều người khen thơ Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Chí Thiện… mà ít người biết đến thơ Duyên Anh?

Vì thơ Duyên Anh không được phổ biến nhiều. Nó phải lâu lắm anh à. Cái gì cũng thế, nếu muốn thưởng thức được thì không phải ai cũng là tri âm. Thí dụ như Dostoievsky là một đỉnh cao của văn học thế giới nhưng mà mãi đến năm 1923 mới được đề cập đến một cách rốt ráo rồi được công nhận. Thật sự ra có mấy người hiểu được Dostoievsky đâu bởi vì họ không thấy được giá trị chân thật của ông ấy. Cần phải kinh qua sự lọc lõi của thời gian vì thời gian chính là thước đo. Như Truyện Kiều, không phải một sớm một chiều mà người ta thưởng thức được. Cha giảng con, thầy giảng trò rồi dần dần nó thấm vào.

Hơn nữa, bao giờ cũng thế, phải có người đi trước rồi mới có kẻ đi sau. Đó là sự mở lối, là thói quen của con người. Thí dụ người ta đang khen ông A là hay mà ta lại cứ chúi mũi khen ông B thì người ta cười mình. Mình không dám nói cái lý lẽ của mình ra là vì lẽ đó. Thế cho nên bây giờ nếu thiên hạ cứ nói ông này hay, ông kia dở, mình không dám nói ngược lại.

Người ta thường thích cái giản dị nhất, cái tầm thường nhất. Từ người con gái quê, đầu tiên chỉ biết cái màu chói lọi. Đến khi biết cái màu nhạt nhạt tức là bắt đầu biết làm dáng. Việc ấy phải cần đến thời gian. Giống như lúc đầu người ta chỉ biết có vàng thôi, mấy ai biết đế hột xoàn đâu? Biết đến hột xoàn là cao rồi đó. Thơ của Duyên Anh là có nghệ thuật rồi. Tôi có thể chủ quan nhưng vì cả cuộc đời tôi với hơn 70, 80 năm trời theo thơ nên tôi nghĩ tôi cũng có tư cách để nói lên nhận định ấy.

Tôi thật không hiểu vì sao có những người như Duyên Anh được, tài hoa quá. Tôi không thể hiểu nổi vì người thường viết được một, hai bài như thế đã ghê rồi mà Duyên Anh viết cả một loạt bài như thế này. Anh ấy không chỉ có tài thơ mà cả tài văn nữa. Tôi không được đọc hết nhưng tôi biết Duyên Anh viết nhiều lắm, viết kinh khủng lắm. Nhất là cái quật cường của anh ta làm tôi sợ đó. Một người đã bị tàn phế rồi mà còn tập viết bằng tay trái nữa. Cái chí của Duyên Anh ghê gớm quá.

Duyên Anh là một con người rất có giá trị. Đằng Giao, nhân chuyến qua Mỹ, đã nói với tôi: “Cháu cam đoan với bác là Duyên Anh nhất định không phải ăng-ten. Nhất định không phải. Nhưng Duyên Anh mà, bác còn lạ gì về tính hắn. Hắn hay sốc óc người ta lắm. Thí dụ như hắn hay nói: Ông sẽ dẫm lên xác chúng mày. Và chẳng thèm cải chính gì hết“. Theo tôi, thái độ không thèm cải chính lại còn muốn nói hơn nữa là một thái độ cao ngạo, bất chấp dư luận. Duyên Anh là một thứ người tự tin mình quá đi. Tin vì người ta không thể ngờ mình như thế được. Vì mình không thể là hạng người như thế được cho nên anh ấy bất chấp cả dư luận. Tôi là tôi thôi. Những người mà họ có giá trị thật là như vậy. Tôi tử tế thì không bao giờ tôi nói tôi tử tế cả vì đó là chuyện đương nhiên rồi. Thành ra tôi nghĩ một người như Duyên Anh không thể nào là ăng-ten được. Tuy nhiên, thái độ ấy của Duyên Anh lại có sự thiệt thòi. Thật ra ngay cả lúc ban đầu tôi còn hồ nghi cho đến lúc tôi được đọc thơ Duyên Anh và được nghe Đằng Giao xác nhận: “Cháu nói, bác có tin cháu không? Bác là bạn thân của bố vợ cháu. Bác biết rằng cháu kính trọng bác. Cháu không nói dối. Duyên Anh không hề làm ăng-ten“. Theo tôi, có thể vì Duyên Anh không phục ai cả. Tôi không biết rõ vì tôi không chơi thân với Duyên Anh nhưng tôi biết chắc một điều: “Người có tài như thế không phục ai được.” Đương nhiên như vậy vì không thấy thằng nào đáng cho mình phục cả. Người có chí hướng như Duyên Anh hiếm lắm. Phải có tâm lắm mới viết được những vần thơ như thế vì nếu không có tâm với đất nước, với nhân dân thì không thể nào viết như thế được. Duyên Anh đã đem máu xương mình gửi trong những vần thơ.

Ngày nay đọc thơ Duyên Anh tôi cảm thấy tiếc lắm vì trước đây tôi không được đọc. Nếu không tôi sẽ viết nhiều về thơ Duyên Anh lắm. Chẳng thể nói sơ sơ như thế này được.

Bác có thể giới thiệu một nhà thơ nào phân tích thêm về thơ Duyên Anh?

Tôi sợ người ta không đủ khách quan, anh ạ. Nguy nhất là ở chỗ đó.

 Bấy giờ, em ơi:

Có bao giờ em hỏi
Quê hương mình ở đâu
Có bao giờ em đợi
Tháng mấy trời mưa ngâu

Mình xa quê hương mà hỏi quê hương mình ở đâu? Tại sao trời mưa ngâu? Trời mưa ngâu vì đó là thời điểm hẹn hò của đôi tình nhân mà cả năm mới gặp nhau có một lần.

Có bao giờ em nói
Lời tình tự ca dao
Có bao giờ em gọi
Hồn ta về với nhau

Ca dao là tiếng mẹ đẻ ra mình ngày nhỏ. Cái đó tha thiết lắm. Những câu thơ này thì chẳng có gì là lạ nhưng mà nó khơi dậy trong lòng người viễn xứ cả một nỗi niềm

Mùi hương nào gợi nhớ
Vườn trăng thoảng hương cau
Con diều nâu đòi gió
Gửi nhạc sáo lên cao

Nếu các anh có ở nhà quê các anh mới biết được. Tiếng lá mo cau mà rụng ở cuối vườn lúc nửa đêm, nó lạ lùng lắm. Anh nhà quê thường đi lượm mo cau về để đựng cơm nếp muối vừng đem theo đi học trường xa. Cái mo cau là cả một kỷ niệm. Các câu thơ nhắc đến hoa cau, diều nâu, nhạc sáo… đã gợi nhớ đến thời trai trẻ. Ban đêm anh đi đâu về nghe thoang thoảng mùi thơm của hoa bưởi, hoa cau trước sân nhà. Đó là quê hương. Là tuổi trẻ.

Sàigòn trường ca:

Hay lắm. Những bài thơ như thế nàu không hay sao được. Ghê gớm quá! Mấy người nói được như thế đâu. Duyên Anh dài hơi lắm. Bài “Tỳ Bà Hành” của Bạch Quy Dị có 88 câu thôi nhưng mà được xem là một bài thơ dài của Tàu. Bài “Ballatre” của ông Victor Hugo nói về Paris có bao nhiêu câu đâu. Bài “Sàigòn trường ca” của Duyên Anh dài và diễn tả một cách tha thiết. lạ lùng lắm. Rất tiếc là bây giờ tôi không còn đủ sức khỏe để mà tôi ngồi viết về những vần thơ Duyên Anh. Tôi sẽ cố gắng từ từ nói lại cho các anh.

Em thuở ấy còn hoa phong nhụy
Trên bản đồ địa lý giáo khoa thư
Rất thật thà và cũng rất ngu ngơ
Anh mực tím vẽ giấc mơ viễn xứ
Giấy trắng học trò viết tên em đầy vở
Viết đầy hồn tuổi nhỏ của anh xưa
Chuyến tầu vô Nam còi thét trong mơ
Nên ga bến chỉ đợi chờ tưởng tượng
Thế đã đủ làm anh sung sướng
Ðủ làm anh chiêm ngưỡng em rồi
Hỡi Sàigòn xa lạ của anh ơi
Anh thầm gọi khi đất trời hiu quạnh
Nuốt miếng nắng vàng lòng thôi mưa lạnh
Và thèm bay như đôi cánh hạc hồng
Ðêm sách đèn chữ nghĩa chạy lung tung
Ngày trường lớp cũng uổng công thầy dạy
Cái bảng đen mịt mù sao anh thấy
Xa nơi anh lộng lẫy một Sàigòn
Một Sàigòn tươi mát ngọt ngon
Ðang vẫy gọi lời mật ong say đắm
Bước chân đời hiền ngoan nhưng chậm lắm
Anh theo nhanh mà vẫn cứ dại khờ
Sàigòn ơi, biết đến bao giờ
Anh khôn lớn để ước mơ đầy tuổi

Nguyễn Tiến Đức ghi lại nhân dịp đến thăm thi sĩ Hà Thượng Nhân

07/2005 

 

MỪNG THỌ Thi Sĩ HÀ THƯỢNG NHÂN 91

http://www.trasonthidan.com/imgupload/im12309245541.jpg

Hà Thượng Nhân

 

Thêm năm, thêm tuổi, chuyện thường
Anh Chín Mươi Mốt đang nương náu đời
…….
Xưa nay dễ có mấy người
Chín mươi mốt nhé, có lời mừng Anh!

Dẫu cho tóc hết bềnh bồng
Nào ai cản được tấm lòng gió bay?
Anh còn Thơ! Thơ Anh Hay
Biết bao người ngửa bàn tay mong chờ!
Với tôi: Ðời đẹp như mơ
Với Anh, chắc cũng không ngờ quá Vui?
Chín mươi mốt – tuổi của Trời
Chín Mươi Mốt Tuổi của Người, mấy ai!

Thêm năm, thêm tuổi, thêm ngày
Họp nhau mình nhớ bữa này sang năm!
Chín Mốt, Chín Hai, Chín Ba, Chín Bốn, Chín Lăm…
Chín như trái chín, lên Trăm Tuổi Trời
Tôi vui, chúc thế, một lời
Anh vui, nhận nhé, cho người người vui!

Huệ Thu tháng giêng 2009

 

HTN đáp như một lời
cảm ơn chung tất cả những lời mừng thọ

Nếu cuộc sống trăm năm đẹp đấy
Thì chín mươi cũng lấy làm vinh
Thế nhưng trong cuộc hư sinh
Chữ vô thường xóa cái hình phù du
Vốn hữu hình là thù hữu hoại
Ðâu có vì đồng loại điểm tô
Ba ngàn một nhóm ngũ hồ
Có ra gì nhỉ cơ đồ ấy đâu
Lại một đám cỏ khâu xanh ngắt
Lại câu thơ xanh ngắt thịt da
Nhưng mà trong cõi thiết tha
Trong vô thường vẫn như là tồn sinh
Cho nên lấy chuyện mình làm quý
Cũng vui chung thì chỉ ít người
Cũng là thêm một trận cười
Thì xin theo gót cuộc đời cũng vâng

Hà Thượng Nhân

 

 

Men Thu I

img_0415nighta.jpg

 

Gửi Huệ Thu
Tác Giả
Đầu Non Mây Trắng

Nhớ Đà Lạt ngậm ngùi cay đắng,
Từ ngàn năm mây trắng còn bay.
…..
Ngàn năm vẫn tấm lòng này,
Mà sao trang sách thêm dày dặn thơ ?
…….
Nhớ cô bé trước tờ giấy mới,
Nét mực xanh phơi phới ân tình
Trước song ai đứng một mình ?
Bên kia con dốc có hình bóng ai ?

Đêm thao thức, thức hoài chẳng ngủ,
Nói là yêu, chưa đủ là yêu,
Đứng ngồi, thôi sớm lại chiều,
Ngày xưa đãy gấm khăn điều vắt vai.

Hạt mưa nhỏ đường dài vô tận
Nghĩ đến người, vừa giận vừa thương.
Tại sao lại đứng bên đường ,
Tại sao thư viết lại vương trước nhà ?

Tại sao để người ta trông đợi,
Trong tấc gang vời vợi ngàn trùng !
Chao ơi ! Thương đến vô cùng,
Làm sao nói hết nhớ nhung hở người ?

Dù muốn khóc, vẫn cười giả lả,
Thiếu một người tất cả đều dư
Trời ơi chỉ mấy trang thư,
Mà sao nước mắt tuôn như thế này ?

Yêu là thế, đắng cay là thế,
Bỗng từ đâu một kẻ giữa đường,
Chưa hề nói đến yêu thương,
Mà rồi chung gối, chung giường chung chăn.

Cuộc duyên nợ bảy năm ngắn ngủi,
Buồn riêng ai, mà tủi riêng ai ?
Hồn người bên dưới tuyền đài,
Thấu chăng giọt lệ ngắn dài thâu canh,

Đành uổng cả ngày xanh, tuổi trẻ,
Ly rượu buồn san sẻ riêng ta.
Thơ như máu, lệ mình pha,
Cửa thiền khép, mở cũng là riêng tư !

Thôi chân giả thực hư cũng một,
Ta ơi ta ! Dại dột chưa ta !
Vừa gần đã tưởng như xa,
Vừa qua đã tưởng như là cố nhân !

Khi Tổ Quốc muôn phần nguy khốn,
Yêu Quê Hương mà trốn Quê Hương .
Tự do chỉ có một đường,
Bốn phương chỉ có một phương thanh bình !

Liều má phấn lênh đênh biển cả,
Bao hãi hùng khó tả thành thơ.
Thương Kiều chân vướng bùn nhơ,
“ Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ”

Thân lưu lạc bắt đầu làm lại,
Chữ văn chương trót dại đa mang,
Nhưng rồi tất cả dở dang,
Trọng nhau càng trọng lại càng phải xa.

Con thơ dại tạm đà thành đạt
Ngẫm cuộc đời như hạt sương mai.
Thì về vun chậu bonsai,
Nuôi con anh vũ, gây vài cụm lan

Có cành liễu trước làn gió lạnh,
Có bông quỳnh hiu quạnh đêm trăng.
Có trong ly rượu bất bằng,
Chuyện nay lại cứ tưởng rằng chuyện xưa.

Có hoa dại xuân vừa chớm nở,
Có cỏ xanh hớn hở đường chiều.
Có người đãy gấm khăn điều,
Vắt vai thấy có rất nhiều thi ca.

Người sóng nước vào ra thư thái,
Sao lời thơ tê tái canh trường ?
Muốn thương mà chẳng dám thương,
Muốn yêu mà lại như dường ngẩn ngơ.

Rót ly rượu bất ngờ ướm hỏi,
Người nhìn ta vời vợi xa xăm.
Đâu vì một chút tiếng tăm ?
Hình như duyên nợ ngàn năm vẫn chờ !

Ôi ! Nghĩ lại bây giờ mới biết,
Lòng chúng mình tha thiết vì nhau.
Chia nhau chung một nỗi đau,
Nắm tay chung một mối sầu cổ kim.

Tưởng tri kỷ chỉ tìm, khó thấy,
Một cuộc đời biết mấy nắng mưa.
Hỏi anh, anh đã hiểu chưa ?
Hỏi em, em tóc cũng vừa chớm xuân.

Lại cứ rót mấy tuần rượu chát,
Lại vì nhau bát ngát thơ xanh,
Và em, và nữa lại anh,
Bỗng dưng ta lại hóa thành trẻ thơ.

Nhớ từng phút, ngẩn ngơ từng phút,
Mỗi chia tay heo hút đường về.
Chưa từng thốt một lời thề,
Suối tương tư ấy đã kề cạnh ta.

Em nếu trước vốn là tiên nữ,
Thấy trần gian còn chữ yêu thương.
Ta từ nửa kiếp tơ vương,
Thử liều sợi chỉ văn chương buộc mình.

Mây hết trắng lại xanh man mác,
Giọt sương trong lác đác vườn hoa.
Ngọc lan em ngắt tặng ta,
Nửa đêm sực tỉnh thiết tha nhớ người.

Người phone lại, người cười, người nhắc
Một trăm câu hứa chắc nghe anh,
Trăm câu với tấm lòng thành
Đêm nay mộng hẳn là xanh bất ngờ !

Hà Thượng Nhân
San Jose, 07 27 98

Bài Họa

Một nỗi nhớ ngậm ngùi cay đắng
Một niềm đau áo trắng ai bay
Ai từng đứng giữa chốn này
Viết thơ, trời thảm đất dày vì thơ

Thơ ai gửi xanh tờ giấy mới
Để lòng ai phơi phới ân tình
Để ai ? Mình lại hỏi mình !
Dưới triền dốc ấy như hình có ai

Dỗ giấc ngủ, mắt hoài kh&oci
rc;ng ngủ,
Chưa nói gì cũng đủ mình yêu
Ôi thôi vừa sớm lại chiều,
Còn ai đãy gấm khăn điều vắt vai ?

Gần gủi quá mà dài vô tận
Biết tại ai ? Vì giận mà thương
Người như chẳng đứng góc đường
Tại sao thơ ấy lại vương trước nhà ?

Nếu như thể người ta chờ đợi
Thì dẫu cho vời vợi muôn trùng
Có ai san sẻ cho cùng?
Lòng người người có nhớ nhung không người?

Nâng chén rượu, ta cười gió lả
Ta mời ai, mời cả đêm dư
Về đây ngồi đọc tâm thư
Để lau nước mắt ướt như khăn này?

Chữ Tình Ái chua cay là thế
Tại làm sao có kẻ giữa đường
Không yêu, không nhớ, không thương
Không quen không biết chung giường chung chăn

Tuy là chỉ mấy năm ngắn ngủi
Thương cho ta mà tủi cho ai !
Người ơi ở dưới tuyền đài
Vì sao ta lệ vắn dài năm canh?

Nhớ những tối, đầu xanh tuổi trẻ
Mối tình si người sẻ cho ta
Má đào từ ấy phôi pha
Tưởng chung mà vẫn cũng là riêng tư

Thôi thì thực thì hư cũng một
Người ta còn dại dột – nữa ta?
Đường trần muôn vạn cách xa
Mà như cứ tưởng người là ân nhân

Khi nước mất góp phần cùng khốn
Trời ơi trời! Phải trốn Quê Hương
Ngàn con đường, vạn con đường
Chỉ còn có mỗi một phương yên bình!

Liều cuộc sống lênh đênh biển cả
Cảnh vượt biên sao tả thành thơ?
Một khi đã vướng bùn nhơ
Thì điều oan khốc dễ chừa mình đâu !

Thua thì chịu quay đầu nhìn lại
Nợ thi ca trót dại còn mang
Cuối cùng dở dở, dang dang
Càng gần lại thấy lòng càng thêm xa

Chút con nhỏ giờ đà thành đạt
Nhìn giọt sương mấy hạt ban mai
Ta về săn chậu bonsai
Nuôi chim nuôi cá, chăm vài chậu lan

Cành liễu ngã theo làn gió lạnh
Bông quỳnh thơm hiu quạnh giữa trăng
Ở đâu còn cánh chim bằng
Chuyện nay chép lại tưởng rằng đã xưa !

Chung quanh đó hoa vừa mới nở
Ôi mùa Xuân hớn hở chiều chiều
Gặp người muốn nói đôi điều
Mà sao lại thấy rất nhiều thi ca

Người, ai nhỉ? Vào ra thư thái
Tiếng hạc nơi quan tái canh trường
Ôi chao là nhớ là thương
Bỗng nhiên sao lại như dường ngu, ngơ

Tình cảnh ấy bấy giờ ai biết
Ai nhớ nhau tha thiết cùng nhau ?
Tài hoa nghĩ lại càng đau
Chẳng qua thì cũng mối sầu cổ kim !

Kẻ tri kỷ đã tìm phải thấy
Đừng kể chi đã mấy nắng mưa
Tri âm ai đã biết chưa
Rằng ta đâu nữa khi vừa vào xuân?

Trông rồi đợi hàng tuần chua chát
Thơ vì nhau lại ngát màu xanh
Vòng tay muốn nói thưa anh
Chưa chi nghe đã trở thành lời thơ

Trong giây lát ngu ngơ đôi phút
Não nùng chưa hun hút ai về
Không còn đâu nữa tóc thề
Để mình quấn lại người kề bên ta

Ta mới đó vừa là thiếu nữ
Chữ nào hơn được chữ yêu thương
Lưới tình khi đã trót vương
Cũng là món nợ văn chương cột mình !

Thư những lá màu xanh man mác
Ngôi sao trời lác đác như hoa
Người mà còn nhớ đến ta
Thì ta ta cũng thiết tha vì người !

Ta tinh nghịch vừa cười vừa nhắc
Anh hứa rồi hứa chắc đi anh
Trăm câu phải viết cho thành
Để ta nhớ mãi màu xanh bất ngờ.

Huệ Thu
7 28 1998


 

 

jo;jo;;o;.jpg

 

CHIN TRƯỜNG XƯA

 

ĐÙA VŨ UYÊN GIANG

Đang họ Nguyễn đổi sang họ Vũ
Hoặc nhà binh dụng võ hơn chăng?
Ngày xưa muốn dẹp bất bằng
Ngờ đâu gặp lúc cắn răng chạy dài
Thơ người viết ta nay xin đọc
Gót giày sô ngang dọc giờ đành
Biết tìm đâu giữa tuổi xanh
Nhìn vào chỉ thấy những anh lính già
Không phân biệt là ta hay bạn
Cứ gặp nhau cạn chén là vui
Ra về lòng những bùi ngùi
Rượu văn chương nếm đủ mùi nhục vinh.

HÀ THƯỢNG NHÂN

KHI Ở TÂY NINH

Rời chiến trận ta về qua Bến Sỏi
Bụi đỏ au trên vai áo chinh nhân
Ngang Thanh Điền ta bỗng ngập ngừng chân
Vì cô bé Bắc kỳ xinh quá sức
Tà áo trắng bay bay, thơ rất mực
Khiến cho hồn chiến sĩ bỗng bâng khuâng
Lính bộ binh về hậu cứ dưỡng quân
Vẫn lội bộ mỏi chân quanh phố chợ
Từ Kim Ánh, Phú Lai say tở mở
Lại quay về nhậu đế ở Long Hoa
Đêm quán Mường, ôi nước mắt chan hoà
Nghe tin bạn bỏ thây ngoài trận tuyến
Đời trai trẻ sống giữa thời chinh chiến
Mấy người đi mà có mạng quay về (1)
Ta gục đầu thương bạn chết xa quê
Giữa lúc tuổi thanh xuân vui hớn hở
Xác tan tác vì mìn trên giao lộ
Tận Svay Rieng xa lơ lắc ngút ngàn
Giữ ấm êm cho dân chúng Sàigòn
Trước làn sóng xâm lăng từ phương Bắc
Và cũng chẳng cần được ai mạc mặt (2)
Chẳng vinh danh và cũng chẳng biết tên
Ôi Tây Ninh ta vẫn nhớ triền miên
Từ một thuở xa xưa làm lính chiến…

VŨ UYÊN GIANG
(1) Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
(2) "nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn" trong Chinh Phụ Ngâm

BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

Làm chiến sĩ có khác chi hòn sỏi
Với bạn bè quên cả áo thi nhân
Giữa bộn bề thôi thì thử dừng chân
Đây quán phở An Hòa ta liệu sức
Giờ buông súng thì quay về bút mực
Ly rượu vang cùng bạn rót bâng khuâng
Sao mà quên những buổi rượu hành quân
Phanh vạt áo cười ran ngay giữa chợ
Cửa ai đóng mà lòng ai vẫn mở
Trên tháng ngày vẫn thắm một vòng hoa
Gặp lại nhau trông mặt thật hiền hòa
Thật là khác những ngày trên trận tuyến
Bọn chúng ta tuy vẫn là lính chiến
Vẫn đắm say trên những nẻo đi về
Vẫn lòng đau một nỗi nước non quê
Lúc xung trận lòng vô cùng hớn hở
Nơi xứ lạ trùng trùng là xa lộ
Như nước trôi xe chạy cứ ngàn ngàn
Bỗng tự nhiên lại thương nhớ Sàigon
Mắt đẫm lệ ngoảnh nhìn về đất Bắc
Trước lịch sử ta chưa hề cúi mặt
Tướng và quân còn để lại bao tên
Đêm hôm nay trằn trọc giấc cô miên
Ta lại nhớ ngày nào còn chinh chiến.

HÀ THƯỢNG NHÂN

MỘT CHUYẾN HÀNH QUÂN LONG AN – HẬU NGHĨA

Một buổi sáng hành quân ngang Bến Lức
Nghe mùi thơm sực nức của lúa non
Đồng ruộng xanh bát ngát trổ đòng đòng
Chân chiến sĩ ngập ngừng bên ruộng lúa
Hây hây đỏ má hồng cô thôn nữ
Đời chiến binh tình tứ mộng đơm hoa
Quên mệt nhọc, quên chiến trận mù xa
Vui nhịp bước trên nẻo đường chiến đấu
Diệt giặc cỏ ở vườn thơm sáu mẫu (1)
Phá trùng vây kinh Trà Cú, Bo Bo
Đám lá tối trời, ngủ bụi ngủ bờ (2)
Sông Vàm Cỏ ngụy trang ta phá địch
Ôi Long An những đêm dài tịch mịch
Trong bóng đen ẩn náu những hình ma
Muỗi mòng thêm đỉa vắt quấy rầy ta
Vượt sông rạch về Đức Hòa, Đức Huệ
Tạm dừng quân nhậu vài chai lẻ tẻ
Xóm Bàu Trai ai bắc nhịp Cầu Duyên (3)
Đi trên cầu lại nhớ Mã Sanh Nhơn (4)
Tìm hình bóng em Tha La Xóm Đạo
Rời Lộc Giang, Trảng Bàng ta khờ khạo
Lỡ sa vào cô giáo trẻ sớm mai
Chỉ vài hôm là tơi tả hình hài
Chân vui bước nhưng lòng còn để lại
Ôi đời lính ta vẫn còn đi mãi
Nay Long An, mai Hậu Nghĩa, Tây Ninh…
Mỗi nơi qua để lại những ân tình
Chân bối rối luyến lưu không nỡ bước.

VŨ UYÊN GIANG
(1) Vườn thơm Lý Văn Mạnh ở Long An
(2) Đám lá tối trời” địa danh nằm bên Kinh Bo Bo từ phía vườn thơm Lý Văn Mạnh đi Đức Huệ
(3) Bàu Trai còn gọi là Khiêm Cương là thị xã của tỉnh Hậu Nghĩa nơi có chiếc Cầu Duyên
(4) Đại tá Mã Sanh Nhơn, Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa người đặt tên chiếc Cầu Duyên

TRỞ LẠI BÌNH DƯƠNG

Ngày trở lại Bình Dương mù khói súng
Giữa mùa Hè đỏ lửa bảy mươi hai.
Nay Lai Khê, mai Bến Thế dài dài
Đoàn quân mỏi gót chân săn bắt địch
Từ Bà Chủ về Tàu Ô mắc dịch
Bọn cộng nô như chuột lắt trong hang
Chúng chơi trò "chốt chặn" tại Bàu Bàng
Ngăn bước tiến quân ta về An Lộc
Ta réo bạn từ căn hầm ẩm mốc
Pháo trên đầu cấp tập giải vây nhau.
Với biển người chúng định diệt ta đau
Nhưng cũng chỉ làm mồi cho pháo bạn
Một chọi mười ta chẳng cần phí đạn
Xác giặc phơi ngập kín cả chiến trường
Áo chiến binh khét bom đạn Bình Dương
Ngày trở lại cũng bình thường như trước
Cũng gian truân đời chiến binh ta bước
Cũng mồ hôi và m&aacu
te;u bạn bè ta.

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro, CA Tháng 8/2007
(Nhớ về chiến trường Bình Dương năm 1972)

TRƯỚC – SAU

Trước, sau rồi cũng sẽ về
Hẹn hò cho lắm chỉ thề thốt môi
Mỗi ngày sao vẫn đổi ngôi
Mỗi người cũng một kiếp đời phù sinh
Hãy mau tỉnh giấc vô minh
Vô thường mấy độ chúng sinh lạc loài
Trở về cát bụi là thôi
Cõi người si hận cõi đời hư vô.

VŨ UYÊN GIANG
5/2006

GỬI VŨ UYÊN GIANG

Người học người xưa thói Mạnh Thường
Cảm người vì một chút văn chương
Rượu không uống được cùng thi hữu
Say dễ gì đâu lúc nhiễu nhương?
Lòng đã coi nhau như buổi mới
Làm sao xoá được chữ yêu thương
Nhưng ta tính vốn ưa sòng phẳng
Dầu biết cùng đi một ngả đường
Ta đọc thơ người ta cảm khái
Ngàn năm thôi cũng đã tơ vương
Ta mong có buổi nào đông đủ
Nâng chén cười rung cả bốn phương
Mà nói Uyên Giang là có bạn
Từ nay là có bạn văn chương.
Hôm nay kiếu bạn ta xin nghỉ
Mai mốt tìm nhau giữa hí trường
Người viết bài hành như buổi nọ
Ta về thơm ngát một mùi hương
Tiếc không còn tuổi hoa niên nữa
Để hẹn nhau về giữa cố hương
Gặp lại những ai như Nguyễn Bính
Để nghe Khương hát, nghe Khê hát
Để thấy mình đang giữa thịnh đường.

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose 18/1/2007

THÁNG TƯ

Tháng Tư? Lại nhớ Tháng Tư xưa
Vận nước điêu linh thật bất ngờ
Chìm đắm trầm luân trong ngục đỏ
Niềm đau hằn dấu đến bây giờ.

Viễn xứ, tha phương – nhớ cố hương
Mang thân tị nạn tủi miên trường
Trắng tay bại tướng làm thương nữ (1)
Bắng nhắng hề xưa vẫn diễn tuồng

Ngồi nhớ tháng tư ôm nỗi đau
32 năm trước lạc tìm nhau
Người đi xứ lạ phương trời thẳm
Kẻ đếm thời gian giữa ngục sâu

Mái tóc bạc phơ vẫn chẳng quên
Niềm đau bại trận, nỗi đau riêng
Chỉ mong nhìn thấy quê hương cũ
Thoát ách cộng nô – chết mới yên.

Tháng 4/2007
(1) Thương nữ bất tri vong quốc hận

Lao xao sóng nước ven bờ
Bước chân phiêu lãng hững hờ nẻo xa
Một mai mỏi gót giang hồ
Hồn du tử cũng ươm mơ gọi về.

VŨ UYÊN GIANG
16-4-2007

MỘT GÓC HÀ NỘI

Nước vẫn xanh xanh ở mặt hồ
Tiền nhân xây dựng một cơ đồ
Xưa Lê Thái Tổ giao hoàn kiếm
Giặc cộng gây nên vạn vết nhơ

Cảnh cũ người xưa thấy ngậm ngùi
Cỏ hoa u uất chẳng còn tươi
Cho dù tô điểm bao khẩu hiệu
Cũng chỉ làm khung cảnh mất vui

Đường phố ngày nay đã lạ xa
Một thời dĩ vãng cũng phôi pha
Những căn nhà cũ tường hoang phế
Vách phủ rêu phong năm tháng qua.

VŨ UYÊN GIANG
Hà Nội, 18/5/2007

HÀ NỘI CHIỀU MƯA

Ta đã về đây giữa buổi chiều Hà Nội
Những hạt mưa xen kẽ nắng lưa thưa
Hồ xanh lơ soi hình tháp chơ vơ (1)
Gờn gợn sóng, liễu lả lơi soi bóng
Cây đa cũ vẫn đứng im bất động
Gốc sần sùi như ngủ giấc trăm năm
Mặc cho giòng lịch sử cứ xoay vần
Cây chứng kiến từng dối gian oan khuất
Ôi Hà Nội! Những đường xưa đã mất
Nét riêng tư của 36 phố phường
Chẳng tìm đâu ra Hàng Bột, Hàng Buồm
Vẻ sầm uất của Hàng Bông, Hàng Trống
Con đê cũ không còn nhìn thấy bóng
Nước sông Hồng cạn kiệt những phù sa
Năm cửa Ô vang bóng thuở xa xưa
Chỉ còn vết của cửa ô Quan Chưởng
Hồ Trúc Bạch, Cổ Ngư ta lạc hướng (2)
Dẫu thiếu thời ta mòn bước chân qua
Từ Thuyền Quang lội bộ đến Hàng Bồ
Mưa lướt thướt thấm ướt vai lữ khách
Chùa Một Cột đứng im trong nắng nhạt
Như thi gan cùng tuế nguyệt thiên thu
Ô uế lây vì lăng của giặc Hồ
Làm nhơ nhuốc cảnh quang thêm u ám (3)
Mưa Hà Nội, phố phường đêm ảm đạm
Dẫu cờ hoa, đèn đuốc vẫn thê lương
Bọn người kia ôm bạo ngược hoang đường
Làm sao có niềm vui trong ánh mắt?

VŨ UYÊN GIANG
Hà Nội 20/5/2007
(1) Tháp Rùa Hồ Hoàn Kiếm
(2) Đường Cổ Ngư từ Thái Hà Ấp ra Hà Nội ngày nay đã đổi tên thành đường Thanh Niên
(3) Chùa Một Cột chỉ còn một khoảnh nhỏ nằm giữa 1 bên là lăng của gian nhân Hồ Chí Minh và 1 bên là Bảo tàng HCM nên khung cảnh trở nên u ám

BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN:

HÀ NỘI CHIỀU MƯA

Ở Bắc Mỹ bỗng nhớ chiều Hà Nội
Nhớ hạt mưa trong nắng nhỏ lưa thưa
Nhớ hồ xanh soi tháp cổ bơ vơ
Nhớ lá liễu khi trăng ngà soi bóng
Nhớ Hà Nội những buổi chiều bất động.
Cây đa xưa cõm cõi giữa trăm năm
Bao bể dâu biết mấy độ xoay vần
Ta còn đó, biết bao người đã khuất
Tên đường trước tưởng còn nay lại mất
Nhớ làm sao, nhớ 36 phố phường
Nhớ Hàng Bột, nhớ Hàng Buồm
Nhớ Hàng Bông, Hàng Trống
Con đê cũ không còn nhìn thấy bóng
Nước sông Hồng vận chuyển mãi phù sa
Năm Cửa Ô của một thưở nào xưa
Còn duy nhất một Cửa Ô Quan Chưởng
Giữa Hà Nội bỗng dưng mà lạc hướng
Thuở thiếu thời từng mòn gót đi qua
Hồ Thuyền Quang xuôi dọc xuống Hàng Bồ
Giọt mưa nhẹ đủ ướt vai lữ khách
Chiều Hà Nội mơ hồ trong nắng nhạt
Ta nhớ sao như nhớ lại mùa thu
Nỗi nhớ thương phút chốc thật mơ hồ
Qua
tám hướng toàn sắc màu u ám
Không phải thấy đầy trời mưa ảm đạm
Thơ Hoàng Cầm một thủa thật thê lương!
Tiếng mưa rơi trên ngọn tháp giáo đường
Sao bỗng thấy riêng mình cay khóe mắt

HÀ THƯỢNG NHÂN
24 tháng 6 năm 2007

MAI TA VỀ GHÉ NGANG ĐÀ LẠT

Mai ta về ghé ngang Đà Lạt
Tìm dấu chân xưa trên lối quen
Yersin ngày trước còn nguyên vẹn
Hay cũng tàn phai theo biến thiên?

Khu chợ Hòa Bình vẫn chỗ xưa?
Cà phê Tùng cũ dáng ai chờ
Xuôi theo con dốc Lâm Viên đó,
Tà áo nào cho ta mộng mơ?

Giòng nước Cam Ly chảy lững lờ
Lăng Ông Hào (1) vẫn đứng chơ vơ
Chân ai rón rén trên bờ cỏ
Kinh động hồn ai gieo ý thơ?

Hồ Xuân Hương nắng lặng lờ buông
Dường như ai đó bước bên đường
Vườn hoa cuối phố còn hoa nở
Héo hắt nhạt phai bởi nhớ thương?

Đà Lạt ngày xưa ta ghé qua
Gặp ai trên bãi cỏ tình cờ
Rồi xa, xa tắp theo thời cuộc
Để lại trong lòng bao ước mơ.

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro, tháng 5/2007
(Nhớ lại lần ghé Đà Lạt năm 1972)
(1)Lăng Nguyễn Hữu Hào

BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN:

Lâu rồi chưa ghé chơi Đà Lạt
Tìm cảnh xưa qua bạn hữu quen
Hoa cỏ vẫn là hoa cỏ ấy
Vẫn là hoa cỏ thuở tiên thiên

Hòa Bình chợ cũ những ngày xưa
Có quán cà phê vẫn đón chờ
Xuôi dốc Lâm Viên tà áo mỏng
Bỗng nhiên vẽ lại những cơn mơ

Giòng thác Cam Ly chảy lặng lờ
Ông Hào lăng cũ đứng bơ vơ
Bước chân nào đó vừa qua đó
Gót đỏ còn bên bóng giáng thơ

Giọt nắng quanh hồ lặng lẽ buông
Phải như ai đó đứng bên đường
Phải hoa vừa nở trong vườn cũ
Em hái cho người em mến thương?
Là đây vừa mới có hôm qua
Mà tưởng như xoay lại thế cờ
Mà tưởng như là trong cổ tích
Té ra là chỉ những cơn mơ.

HÀ THƯỢNG NHÂN 22/6/2007

 

qc 1.jpg