Sức Khỏe

BS Trần Lý lê : Những điều cần biết về ung thư tuyến nhiếp hộ (prostate)

Những điều cần biết về ung thư tuyến nhiếp hộ (prostate)

Tài Liệu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ

Bác Sĩ Trần Lý Lê

Hàng năm tại Hoa Kỳ khoảng 186 ngàn người bị ung thư tuyến nhiếp hộ, đây là loại ung thư thường thấy nhất trong nam phái, sau sau ung thư da.

Tuyến nhiếp hộ là một phần của bộ phận sinh dục trong phái nam, nằm trước trực tràng (rectum) và sau bàng quang. Tuyến nhiếp hộ bọc quanh ống tiểu (urethra), ống dẫn nước tiểu thoát ra ngoài từ bàng quang. Bình thường tuyến nhiếp hộ lớn khoảng 4 cm, cỡ một trái đậu óc trăn (walnut). Khi tuyến nhiếp hộ sưng trướng, sẽ xoắn chặt ống tiểu gây ra bí tiểu hoặc ngừng hẳn việc tiểu tiện.
Tuyến nhiếp hộ tiết ra chất lỏng tạo nên một phần của tinh dịch (seminal fluid). Khi xuất tinh, tinh dịch đưa tinh trùng ra ngoài cơ thể.
Các nội tiết tố nam (androgens) khiến tuyến nhiếp hộ tăng trưởng; tinh hoàn (testicles) là những tuyến chính tiết ra các nội tiết tố nam, kể cả testosterone. Tuyến thượng thận cũng tiết ra testosterone, với một lượng thấp.
Xem hình sau:

http://www.pccnc.org/images/prostate_gland.jpg

Tế bào ung thư

Ung thư khởi đầu từ tế bào, đơn vị căn bản của mọi mô, mô tạo thành bộ phận.

Bình thường, tế bào khỏe mạnh sinh sản và tăng trưởng tạo ra những tế bào con khi cần thiết. Khi tế bào khỏe mạnh già lão hoặc bị hư hoại, chúng chết, và các tế bào mới thay thế.

Đôi khi, quá trình sinh-tử trật tự kể trên bị đảo lộn. Tế bào mới xuất hiện trong khi cơ thể không cần đến, hoặc tế bào già lão, hư hoại không chết như đã định, sự tích tụ của các tế bào mới và cũ tạo thành khối gọi là "khối u“, bướu hay "tumor“.

Khối u (bướu) có thể "lành“ (benign) hoặc "độc“ (malignant). Bướu lành thường không độc hại như bướu độc.

Bướu lành:
• Ít khi gây tử vong
• Thường không cần giải phẫu để cắt bỏ
• Không ăn lậm (invasive) đến các mô lân cận
• Không lan xa đến những bộ phận khác trong cơ thể

Bướu độc:
• Có thể gây tử vong
• Có thể tái phát sau khi đã được cắt bỏ, chữa trị
• Có thể ăn lậm đến các mô lân cận
• Lan ra các bộ khác

Tế bào ung thư lan rộng bằng cách tách rời từ khối u đầu tiên. Các tế bào này theo mạch máu (blood vessel) hoặc mạch bạch huyết (lymph vessel) đến mọi bộ phận trong cơ thể. Tế bào ung thư có thể “bám“ vào các bộ phận và sinh sản, tạo nên một khối u mới, có thể gây hư hoại các bộ phận này. Sư lan tràn của tế bào ung thư gọi là “metastasis“.
Benign prostatic hyperplasia (BPH): Là một loại bướu lành gây ra bí tiểu khi tuyến nhiếp hộ quá lớn, xoắn chặt ống tiểu.
Chứng BPH thường thấy ở phái nam, tuổi 50 trở lên, đa số không cần chữa trị, nhưng đôi khi, cần chữa trị để giúp bệnh nhân tiểu tiện dễ dàng.

Những yếu tố gia tăng nguy cơ bị ung thư tuyến nhiếp hộ:

Y học chưa biết rõ nguyên nhân của ung thư tuyến nhiếp hộ và cũng không thể giải thích tại sao người này bị ung thư mà người khác không bị ung thư. Dù chưa biết rõ nguyên nhân gây ung thư, giới y học đã nhận ra những yếu tố liên quan đến ung thư tuyến nhiếp hộ, càng có nhiều yếu tố này, tỷ lệ ung thư càng cao (risk factors):
• Tuổi tác: Tỷ lệ ung thư gia tăng với tuổi tác, tại Hoa Kỳ, chứng ung thư này thường thấy ở nam phái tuổi 65 trở lên.
• Tỷ lệ ung thư gia tăng khi có cha, anh, con trai bị ung thư tuyến nhiếp hộ.
• Chủng tộc: Người da đen có tỷ lệ ung thư cao hơn người da trắng, chứng ung thư này ít thấy ở người da vàng.
• Những sự thay đổi ở tế bào tuyến nhiếp hộ gia tăng tỷ lệ ung thư như chứng prostatic intraepithelial neoplasia (PIN); đây là các tế bào bất thường khi quán sát dưới kính hiển vi

Một số những biến thái trong di thể: Các chuyên gia nhận ra rằng sự thay đổi tại một số vị trí trên nhiễm sắc thể (chromosome) liên quan đến ung thư tuyến nhiếp hộ, nghĩa là tỷ lệ ung thư cao hơn, nguy cơ bị ung thư tuyến nhiếp hộ gia tăng theo tỷ lệ thay đổi của di thể, nhất là sự hiện diện của các di thể như BRCA1 và BRCA2.

Có một hoặc nhiều yếu tố kể trên chưa hẳn là sẽ bị ung thư tuyến nhiếp hộ; nhiều người có một số các yếu tố kể trên nhưng không hề bị ung thư.

Các yếu tố khác đang được thẩm xét. Có tài liệu cho rằng việc thắt ống dẫn tinh có thể gia tăng nguy cơ bị ung thư tuyến nhiếp hộ nhưng chưa có tài liệu nào chứng minh đuọc điều này. Các tài liệu khác cho rằng uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào, BPH, bị bệnh hoa liễu, mập phì, ít vận động hoặc ăn uống nhiều mỡ súc vật … gia tăng nguy cơ bị ung thư tuyến nhiếp hộ, những yếu tố này đang được thẩm định, chưa có kết quả.

Một vài cuộc khảo cứu chú trọng đến việc thẩm định các yếu tố ngăn ngừa ung thư tuyến nhiếp hộ như sinh tố E, selenium, trà xanh … Kết quả chưa được công bố.

Triệu chứng
Bệnh nhân có thể không gặp triệu chứng nào hoặc gặp một hay nhiều triệu chứng sau:
-Khó khăn trong việc tiểu tiện:
• Bí tiểu, không thể bắt đầu hoặc không thể ngừng việc tiểu tiện
• Cần đi tiểu nhiều lần, nhất là về đêm
• Giòng nước tiểu bị ngắt quãng
• Đau rát khi tiểu tiện
-Dương vật không thể cương cứng.
-Máu trong nước tiểu hoặc tinh dịch
-Đau lưng, hông hoặc hai đùi

Những triệu chứng này không hẳn hoàn toàn do ung thư, nhưng cần đi khám bệnh để bác sĩ truy tìm nguyên nhân.

Truy tìm và chẩn bệnh
Bác sĩ có thể truy tìm ung thư tuyến nhiếp hộ trước khi bệnh nhân có triệu chứng. Khi khám bệnh, bác sĩ sẽ ghi nhận bệnh sử cá nhân và cả thân nhân trong gia tộc và khám toàn khoa. Bác sĩ có thể dùng:
Khám hậu môn (digital rectal exam): Bác sĩ đeo găng và dùng ngón tay đưa qua hậu môn khám xét tuyến nhiếp hộ.
Đo lượng prostate-specific antigen (PSA) trong máu: Khi lượng PSA lên cao, có thể do BPH, viêm tuyến nhiếp hộ (prostatitis) hoặc do ung thư.
Từ cả hai cách truy tìm kể trên, bác sĩ có thể tìm ra sự "bất thường" tại tuyến nhiếp hộ nhưng không thể xác quyết là ung thư hay không và cần tìm kiếm bằng những phương phá
p thử nghiệm khác.
Ngoài việc khám xét tuyến nhiếp hộ (digital rectal exam), thử máu, thử nước tiểu, bác sĩ có thể dùng những cách thử nghiệm khác:
• Transrectal ultrasound: bác sĩ dùng "que thăm" (probe) đưa qua hậu môn, trực tràng để dò tìm những "âm thanh" (sound wave) dội lại từ tuyến nhiếp hộ, và máy móc sẽ "chuyển" (echo) những âm thanh này thành hình ảnh của tuyến nhiếp hộ gọi là sonogram.
• Sinh thiết: Bác sĩ dùng kim xuyên qua trực tràng (rectum) lấy ra nhiều mảnh tuyến nhiếp hộ đem thử nghiệm, cách này gọi là transrectal biopsy. Đôi khi siêu âm được dùng để giúp việc trích mô chính xác hơn. Sinh thiết là phương pháp chính xác nhất để chẩn bệnh ung thư. Bác sĩ Bệnh Lý xem xét các tế bào dưới kính hiển vi để tìm kiếm sự bất thường.

Quý vị có thể đặt những câu hỏi sau trước khi bác sĩ trích mô (làm sinh thiết):

– Trích mô ảnh hưởng đến việc chữa trị ra sao?
– Bác sĩ chọn phương thức nào để trích mô?
– Việc trích mô kéo dài bao nhiêu lâu? Tôi sẽ thức trong khi làm sinh thiết? Có đau đớn lắm không?
– Làm sinh thiết có rủi ro không? Có gây ra việc lan tràn ung thư không? Tôi có bị xuất huyết? Nhiễm trùng?
– Chừng nào thì tôi biết kết quả? Ai sẽ là người giải thích kết quả cho tôi hiểu?
– Nếu tôi bị ung thư, ai sẽ là người nói chuyện với tôi về những bước sắp tới? Và bao giờ?
Nếu không tìm thấy dấu vết ung thư từ việc làm sinh thiết, quý vị hãy hỏi bác sĩ xem có cần cần tái khám định kỳ hay không.

Khi tìm ra ung thư, bác sĩ bệnh lý (pathologist) thường ghi nhận và phân loại các tế bào ung thư (tumor grading), việc xếp loại này cho biết tế bào ung thư khác những tế bào bình thường nhiều hay ít, sự khác biệt càng nhiều, tế bào ung thư có khuynh hướng tăng trưởng và lan tràn càng mạnh. Các bác sĩ bệnh lý có thể dùng hệ thống phân loại G1 – G4, hoặc dùng Gleason score. Dưới kính hiển vi, mỗi vùng tế bào được thẩm định và phân loại với một con số từ 1-5, sau đó, bác sĩ tìm hai loại tế bào xuất hiện nhiều nhất, cộng "điểm" của hai loại này tạo ra Gleason score, khi chỉ thấy 1 loại tế bào, bác sĩ sẽ tính làm 2 lần và cộng điểm; Gleason score từ 2-10. Chỉ số Gleason được xem là "cao" khi số điểm tổng cộng là 10, loại bướu có chỉ số Gleason cao có khuynh hướng tăng trưởng và lan nhanh hơn.

Một hệ thống xếp loại khác dùng "mức độ" G1- G4; G4 là loại bướu có khuynh hướng tẳng và lan nhanh nhất.

Định kỳ ung thư

Trước khi chữa trị, bác sĩ cần biết thời kỳ của ung thư. Việc định kỳ ung thư dựa trên kích thước của khối u, đã lan hay chưa và nếu có, đã lan đến đâu. Để định thời kỳ của ung thư, bác sĩ cần dùng một hoặc nhiều cách thử nghiệm sau:
• Bone scan: Bác sĩ chích một lượng hóa chất chứa xạ trị vào máu, hóa chất theo máu luân lưu khắp cơ thể, đọng tại xương, một dụng cụ khác, scanner, sẽ tìm và đo lượng xạ trị, rồi chiếu lại trên màn ảnh hoặc phim. Những hình ảnh này sẽ cho thấy ung thư hiện diện tại xương hay không hoặc những sự "bất thường" khác tại xương.
• CT scan: Máy chụp hình các bộ phận tại khoang bụng dưới, tìm dấu vết sưng trướng hạch bạch huyết gần tuyến nhiếp hộ. Bác sĩ có thể dùng "thuốc nhuộm" (contrast) chích vào tĩnh mạch hoặc bơm vào trực tràng dưới dạng để nhận rõ các bộ phận này
• MRI: Một loại máy chụp hình khác, chụp hình các bộ phận trong cơ thể.Bác sĩ có thể xem xét các hình ảnh trên màn hình và in ra phim ảnh. các hình ảnh này có thể cho thấy sự sưng trướng của các hạch bạch huyết lân cận và sự bất thường của các bộ phận khác.
Khi ung thư tuyến nhiếp hộ lan ra các bộ phận khác, thường tìm thấy tại hạch bạch huyết lân cận. Nếu hạch bạch huyết có dấu hiệu ung thư có nghĩa là đã lan đến xương hoặc các bộ phận khác.
Khi ung thư lan đến các bộ phận khác, khối u mới có cùng tế bào ung thư như khôi u đầu tiên, ung thư tuyến nhiếp hộ lan đến xương vẫn là ung thư tuyến nhiếp hộ, không phải ung thư xương, và được gọi là ung thư di căn.

Các thời kỳ ung thư tuyến nhiếp hộ:

• Thời kỳ I (Stage I): Ung thư không thể tìm thấy bằng cách khám bệnh, tìm thấy khi chữa BPH qua giải phẫu. Ung thư nằm tại tuyến nhiếp hộ. "Mức độ" G1 hoặc chỉ số Gleason 4 (hoặc thấp hơn).
• Thời kỳ II: (Stage II): Tế bào ung thư đã khác tế bào bình thường nhiều hơn, nhưng khối u vẫn còn nằm tại tuyến nhiếp hộ. Bác sĩ có thể tìm thấy khi khám bệnh hoặc qua đo siêu âm.
• Thời kỳ III (Stage III): Ung thư đã lan ra ngoài tuyến nhiếp hộ, có thể tìm thấy tại túi tinh dịch (seminal vesicles), nhưng chưa lan ra đến những hạch bạch huyết lân cận.
• Thời kỳ IV (Stage IV): Ung thư đã lan ra đến bàng quang, trực tràng hoặc những bộ phận lân cận (ngoài seminal vesicles), hoặc hạch bạch huyết, xương…

Chữa trị
Bệnh nhân bị ung thư tuyến
nhiếp hộ lựa chọn cách chữa trị thích hợp, cách chữa trị này không hẳn hoàn hảo với bệnh nhân khác. Những cách chữa trị này bao gồm "theo dõi bệnh trạng" (active surveillance" hoặc "watchhful waiting"), giải phẫu, xạ trị, nội tiết tố, và hóa chất trị liệu. Bệnh nhân có thể dùng nhiều cách chữa trị kể trên.

Việc chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ tùy thuộc vào thời kỳ của ung thư, loại ung thư, triệu chứng và tình trạng sức khoẻ chung của người bệnh. Bệnh nhân và bác sĩ sẽ thẩm định, so sánh cách chữa trị, phản ứng phụ, nhất là những phản ứng phụ liên hệ đến phần tình dục của người bệnh và sự thoải mái trong những ngày còn lại.

Quý vị có thể muốn tham dự thử nghiệm lâm sàng, và có thể thảo luận với bác sĩ của mình.
Bác sĩ có thể giới thiệu quý vị đến một chuyên viên, hoặc quý vị có thể nhờ bác sĩ giới thiệu đến chuyên viên. Những chuyên viên chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ bao gồm: bác sĩ giải phẫu tiết niệu (urologic oncologist), bác sĩ chuyên khoa ung thư, bác sĩ xạ trị ung thư hoặc bao gồm cả chuyên viên điều dưỡng về ung thư và dinh dưỡng.

Trong bất cứ thời kỳ ung thư nào, bệnh nhân cũng cần được giảm đau và giảm triệu chứng, giảm phản ứng phụ, và áp lực tinh thần. Loại chữa trị này được gọi là “supportive care”, “palliative care” hoặc chữa trị triệu chứng.

Trước khi chữa trị, quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ:

• Tôi bị ung thư loại nào? Ở trong thời kỳ nào? Ung thư đã lan xa chưa? Nếu có, đã lan đến đâu?
• Có bao nhiêu cách chữa trị? Bác sĩ đề nghị cách nào? Tôi có được chữa trị bằng nhiều cách không?
• Tôi có phải vào bệnh viện không? Sau khi rời bệnh viện, tôi sẽ được chăm sóc ra sao?
• Biến chứng và phản ứng phụ là những gì? Ta sẽ phòng ngừa hoặc chữa trị ra sao?
• Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả?
• Có cần phải thay đổi hoạt động trong đời sống hằng ngày không? Có ảnh hưởng đến mặt tình dục hay không? Nếu có, sẽ ảnh hưởng như thế nào? Làm cách nào để giảm bớt những phản ứng phụ này? Có ảnh hưởng đến việc bài tiết không? Việc tiểu tiện? Việc đại tiện?
• Tôi có hồi phục hoàn toàn không? Bao nhiêu lâu thì hồi phục?
• Tôi cần đi khám bệnh định kỳ không?
• Việc chữa trị có tốn kém nhiều không? Bảo hiểm của tôi có trả không?
• Tôi có nên tham dự thử nghiệm lâm sàng không?

Theo dõi bệnh trạng ("chờ xem")

Bệnh nhân có thể chọn cách "chờ xem" nếu việc chữa trị có nhiều cái hại (phản ứng phụ) hơn cái lợi. Bác sĩ cũng có thể đề nghị việc "chờ xem" nếu bệnh nhân bị ung thư trong thời kỳ bắt đầu và ung thư là loại tăng trưởng chậm; hoặc khi bệnh nhân đã cao tuổi và mang nhiều chứng bệnh khác.
Chọn việc ‘chờ xem" không có nghĩa là ngưng mọi việc chữa trị, việc làm này chỉ có nghĩa là chọn lựa việc chờ đợi để tránh phản ứng phụ của việc chữa trị. Chọn giải phẫu hay xạ trị không bảo đảm rằng bệnh nhân sẽ sống lâu hơn so vơi bệnh nhân chọn cách "chờ xem".
Nếu quý vị và bác sĩ đồng ý chọn cách ‘chờ xem", bác sĩ sẽ khám bệnh thường xuyên mỗi 3-6 tháng. Sau khoảng 1 năm, bác sĩ có thể làm sinh thiết để thẩm định lại chỉ số Gleason, lúc ấy, nếu chỉ số Gleason gia tăng, mức PSA gia tăng hoặc có triệu chứng, bệnh nhân có thể bắt đầu việc chữa trị, qua xạ trị, giải phẫu hoặc một cách chữa trị khác.

Việc "chờ xem" để tránh phản ứng phụ của xạ trị, giải phẫu nhưng sự lựa chọn này cũng có một vài rủi ro. Trong một vài bệnh nhân, việc "chờ xem" có thể khiến ung thư lan ra bộ phận khác nhưng ngược lại, việc chịu đựng cuộc giải phẫu hoặc xạ trị mang lại nhiều khó khăn khi đã cao tuổi.
Nếu quý vị chọn cách "chờ xem" nhưng đổi ý vì lo âu, hãy thảo luận với bác sĩ sự lo âu của mình.

Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi chọn cách "chờ xem":
• Nếu chọn việc chờ đợi, tôi có thể đổi ý không?
• Có an toàn để tôi chờ đợi không?
• Việc thăm bệnh định kỳ có thường xuyên không? Tôi sẽ cần loại thử nghiệm nào? Tôi có cần làm sinh thiết lại không?
• Làm thế nào để biết rằng ung thư lan ra?
• Giữa những lần thăm bệnh, tôi cần báo tin cho bác sĩ biết về những triệu chứng gì?

Giải phẫu
Đây là cách chữa trị thường dùng cho ung thư tuyến nhiếp hộ thời kỳ I-II, một loại chữa trị tại chỗ (local therapy), đôi khi dùng cho ung thư trong thời kỳ III – IV. Bác sĩ cắt bỏ một phần hoặc toàn thể tuyến nhiếp hộ.

Trước khi cắt bỏ tuyến nhiếp hộ, bác sĩ cắt bỏ hạch bạch huyết tại khoang bụng, nếu tế bào ung thư hiện diện tại hạch bạch huyết náy, có thể là ung thư đã lan đến các bộ phận các trong thân thể. Khi ung thư đã lan tràn, bác sĩ có thể sẽ không cắt bỏ tuyến nhiếp hộ mà sẽ dùng các cách chữa trị khác.

Có nhiều phương cách giải phẫu để chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ. Mỗi cách có
cái lợi / hại riêng, quý vị có thể bàn thảo với bác sĩ trước khi quyết định loại giải phẫu nào thích hợp nhất.

Giải phẫu: Bác sĩ mở một đường tại khoang bụng dưới và cắt bỏ khối u. Có hai cách:
• Radiacal retropubic prostatectomy: Bác sĩ cắt bỏ toàn bộ tuyến nhiếp hộ và những hạch bạch huyết lân cận qua một đường mổ tại bụng dưới.
• Radical perineal prostatectomy: Bác sĩ cắt bỏ toàn bộ tuyến nhiếp hộ với một đường mổ đi qua túi đựng tinh hoàn (scrotum) và hậu môn.

Laparoscopic prostatectomy: Bác sĩ dùng phương pháp nội soi, cắt một lỗ hổng nhỏ ở bụng để truyền dụng cụ và cắt bỏ khối u.

Robotic laparoscopic surgery: Bác sĩ cắt bỏ tuyến nhiếp hộ qua những đường cắt nhỏ, dụng cụ nội soi và người máy được dùng để mổ; bác sĩ điểu khiển người máy qua màn hình máy điện toán.

Cryosurgery: Bác sĩ chuyển dụng cụ qua vết cắt giữa túi tinh hoàn và hậu môn. Dụng cụ được đông cứng để hủy tế bào ung thư bằng hơi lạnh. Phương cách này đang được thử nghiệm tại một vài trung tâm Y tế trên thế giới

Transurethral resection of the prostate (TURP): Bác sĩ cắt bỏ một phần tuyến nhiếp hộ bằng một dụng cụ đặt qua ống tiểu (urethra), khối u được cắt bằng điện. TURP không cắt bỏ hoàn toàn tuyến nhiếp hộ và có thể không cắt bỏ hoàn toàn khối ung thư, nhưng sẽ cắt bỏ phần ung thư làm nghẽn ống tiểu.

Thời gian cần thiết để phục hồi không đồng nhất cho mọi bệnh nhân, hầu hết bệnh nhân ở lại bệnh viện 2-3 ngày. Bệnh nhân sẽ cần thuốc giảm đau vài tuần sau khi mổ. Trước cuộc giải phẫu, quý vị có thể thảo luận với bác sĩ về thuốc men dùng sau khi mổ, bác sĩ có thể gia giảm thuốc khi cần thiết.
Sau khi mộ, ống tiểu cần thời gian để lành, bệnh nhân có thể dùng ống dẫn nước tiểu (catheter) nối từ bàng quàng đến túi đựng bên ngoài cơ thể. Ống dẫn sẽ nằm trong ống tiểu khoảng 5 ngày đến 3 tuần lễ. Bệnh nhân sẽ được chỉ dẫn cách tự chăm sóc.

Đôi khi cuộc giải phẫu có thể gây hư hoại thần kinh chung quanh tuyến nhiếp hộ, sự hư hại này có thể gây liệt dương. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể áp dụng kỹ thuật "gìn giữ thần kinh" (nerve sparing surgery) để giữ lại phần thần kinh kiểm soát việc căng cứng dương vật. Khi khối u quá lớn và nằm ngay tại những thần kinh này, bác sĩ không thể áp dụng kỹ thuật kể trên. Liệt dương có thể vĩnh viễn. Quý vị hãy thảo luận với bác sĩ về thuốc men và những cách tiết giảm phản ứng phụ liên quan đến tình dục.

Nếu tuyến nhiếp hộ bị cắt bỏ, quý vị sẽ không có tinh dịch nữa kể cả khi khoái cảm tột độ. Nếu muốn tiếp tục việc sinh sản, quý vị có thể giữ tinh trùng tại "ngân hàng" trước khi giải phẫu.

Trước khi giải phẫu, quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ:

-Bác sĩ sẽ thực hiện cách giải phẫu nào cho tôi?
-Tôi sẽ ra sao sau khi mổ?
– -Nếu đau đớn, có thể dùng thuốc gì?
-Tôi sẽ ở lại bệnh viện bao nhiêu lâu?
-Tôi có bị phản ứng phụ lâu dài hay không? Tỷ lệ rủi ro bị liệt dương hoặc mất kiểm soát bàng quang là bao nhiêu?
-Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường?
– Tôi có cần đi kham bệnh định kỳ thường xuyên không?

Xạ trị: Dùng năng lượng cao (high energy) để diệt tế bào ung thư, một loại chữa trị tại chỗ cho mọi thời kỳ của ung thư tuyến nhiếp hộ. Bệnh nhân trong thời kỳ đầu có thể dùng xạ trị thay cho giải phẫu. Xạ trị có thể được sử dụng trước, sau khi giải phẫu hoặc ngay cả khi không giải phẫu và dùng để giảm đau đớn. Có hai loại:

• Ngoại xạ trị (external radiation): Nguồn phóng xạ bên ngoài cơ thể, từ một máy phát quang, bệnh nhân thường được chữa 5 ngày mỗi tuần trong nhiều tuần lễ. Đôi khi bác sĩ sử dụng three-dimensional conformal radiation therapy, loại chữa trị này chính xác và bảo vệ được những tế bào bình thường nằm gần khối u.
• Nội xạ trị (internal radiation, implant radiation, brachytherapy) : Nguồn phóng xạ đựng trong vật chứa nhỏ gọi là "hạt". Những hạt phóng xạ này được đặt vào khối u trong cơ thể qua kim chích. Hạt phóng xạ tiết ra quang tuyến trong nhiều tháng và không cần phải tháo bỏ khi hết chất phóng xạ.

Đôi khi bệnh nhân được chữa trị với cả hai loại xạ trị trị liệu kể trên.

Phản ứng phụ tùy thuộc vào lượng và loại xạ trị, thường biến mất một thời gian ngắn sau khi xạ trị. Trong thời gian chữa trị, bệnh nhân rất mệt mỏi nên nghỉ ngơi dưỡng sức là điều quan trọng nhưng vẫn nên vận động thân thể để chóng bình phục.

Nếu dùng ngoại xạ trị, phản ứng phụ thường thấy là tiêu chảy và tiểu rắt. Một số bệnh nhân nhân gặp trở ngại trong việc tiêu tiểu rất lâu sau khi chữa trị. Vùng da nơi chiếu phóng xạ thường đỏ rát và khô, lông rụng và có thể không mọc lại.

Nội xạ trị có thể gây mất kiểm soát bàng quang nhưng trở ngại này sẽ tiết giàm sau vài tháng.
Ngoại và nội xạ trị có thể gây liệt dương. Quý vị nên thảo luận với bác sĩ trước khi chữa trị.

Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu cuộc xạ trị:
-Tại sao tôi cần loại chữa trị này?
-Bác sĩ chọn loại xạ trị nào cho tôi? Cả hai loại xạ trị có cần thiết không?
-Khi nào thì việc chữa trị bắt đầu? Khi nào th&igrave
; xong? Chữa trị bao nhiêu lần?
-Tôi sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Tôi có cần vào bệnh viện không? Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi và sau khi chữa trị?
-Tôi có thể tự đến nơi chữa trị hay không?
-Làm thế nào để biết là xạ trị có hiệu quả hay không?
-Có phản ứng phụ nào lâu dài hay không?
-Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường?
– Tôi có cần đi kham bệnh định kỳ thường xuyên không?

Nội tiết tố trị liệu (hormone therapy)
Bệnh nhân có thể dùng nội tiết tố trị liệu trước, trong khi hoặc sau xạ trị. Nội tiết tố trị liệu thường dùng để chữa ung thư tái phát.
Tế bào ung thư tuyến nhiếp hộ cần nội tiết tố nam để tăng trưởng, loại chữa trị này ngăn chặn nguồn nội tiết tố nam.

Nội tiết tố trị liệu dùng thuốc men hoặc giải phẫu:
Giải phẫu: Orchiechữa trịomy: Bác sĩ cắt bỏ tinh hoàn, nơi tiết ra những nội tiết tố nam, nhất là testosterone
Thuốc men: Bác sĩ có thể dùng dược phẩm để ngăn cơ thể tạo ra nội tiết tố:
• Luteneizing hormone-releasing hormone (LH-RH): Loại thuốc này ngăn tinh hoàn tiết nội tiết tố nam, leuprolide, goserelin và triptorelin bán trên thị trường dược phẩm quốc tế. Lượng testosterone xuống từ từ. Thiếu testosterone, khối u thu nhỏ hoặc tăng trưởng chậm lại. Loại thuốc này còn có tên là gonadotropin- releasing hormone (GnRH) agonist.
• Antiandrogens: Loại thuốc ngăn tác dụng của nội tiết tố nam như flutamide, bicalutamide, nilutamide.
• Những dược phẩm khác: Các loại thuốc ngăn tuyến thượng thận sản xuất testosterone như ketoconazole và aminogluthitimide.

Sau khi cắt bỏ tinh hoàn hay dùng những loại thuốc LH-RH, cơ thể không còn testosterone từ tinh hoàn. Tuy nhiên, tuyến thượng thận vẫn tiếp tục sản xuất testosterone, và bác sĩ cần dùng nhiều loại thuốc khác nhau để ngăn chặn hoàn toàn những nguồn testosterone, gọi là total androgen blockade, kết quả chữa trị không mấy khả quan hơn so với việc dùng LH-RH.

Nội tiết tố trị liệu tạo ra những phần ứng phụ như liệt dương, "bốc hỏa" lên mặt (hot flashes) và mất sự ham muốn tình dục. Loại chữa trị này cũng gây loãng xương, bác sĩ có thể dùng thuốc để tiết giảm sự loãng xương và ngăn ngừa gẫy xương.

Loại thuốc LH-RH có thể gia tăng triệu chứng vài ngày sau khi bắt đầu chữa trị, để ngăn ngừa, bác sĩ có thể dùng chung với loại antiandrogen.

LH-RH như leuprolide có thể gia tăng mỡ tích tụ trong cơ thể, nhất là vùng bụng, và lượng đường huyết cũng như cholesterol cũng có thể gia tăng. Những yếu tố này có thể dẫn đến chứng tiểu đường và bệnh tim mạch nên bác sĩ sẽ cần theo dõi bệnh trạng kỹ lưỡng và thường xuyên.

Loại antiandrogen có thể gây buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy hoặc khiến vú sưng trướng. Đôi khi, loại dược phẩm này tạo ra biến chứng tại gan (triệu chứng bao gồm đau bụng, vàng mắt hoặc nước tiểu đậm màu). Một số bệnh nhân bị ngộp thở và suy tim. Một số bệnh nhân khác gặp trở ngại trong việc điều tiết thị giác giữa bóng tối và ánh sáng.

Khi dùng ketoconazol lâu dài, bệnh nhân có thể bị suy gan. Aminoglutethimide có thể tạo ra mề đay, ngứa ngáy trên da.

Ung thư tuyến nhiếp hộ dù đã lan tràn đến những bộ phận khác, vẫn có thể cầm cự trong 2-3 năm với nội tiết tố trị liệu. Sau đó, ung thư tái phát và bác sĩ sẽ cần sử dụng những phương cách khác. Những phương cách này phần đông còn nằm trong vòng thử nghiệm.

Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị bằng nội tiết tố:

-Tôi sẽ được chữa trị bằng loại nội tiết tố nào? Bác sĩ chọn giải phẫu hay dược phẩm? Tại sao?
– Nếu dùng dược phẩm, khi nào thì bắt đầu? Khi nào thì chữa trị xong?
– Nếu dùng giải phẫu, tôi sẽ phải ở lại bệnh viện bao nhiêu lâu?
– Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả?
-Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào? Có cách nào phòng ngừa không?
-Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không?
-Sau khi trị liệu, tôi có phải khám bệnh đình kỳ thường xuyên không?

Hóa chất trị liệu
Khi nội tiết tố trị liệu không còn hiệu quả để ngăn chặn sự tăng trưởng của ung thư tuyến nhiếp hộ, bác sĩ sẽ cần dùng hóa chất để chữa trị. Các hóa chất này thường được truyền qua tĩnh mạch, bệnh nhân được chữa trị tại trung tâm y tế, văn phòng bác sĩ hoặt tại nhà; một vài bệnh nhân cần ở lại bệnh viện.
Phản ứng phụ tùy thuộc vào loại và lượng hóa chất sử dụng. Nói chung, hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư nên sẽ ảnh hưởng đến những tế bào tăng trưởng nhanh chóng:

– Tế bào máu: Khi hóa chất chữa ung thư hạ thấp số tế bào máu khỏe mạnh, bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng, bầm tím hoặc chảy máu dễ dàng, và mệt mỏi, mất sức. Bác sĩ cần thử máu để đo lường số tế bào máu. Khi lượng tế bào xuống thấp, bác sĩ có thể dùng thuốc kích thích tủy xương chế tạo tế bào mới nhanh chóng hơn hoặc sẽ được truyền máu.
– Tế bào bọc quanh chân tóc: Hóa chất gây rụng tóc. Tóc sẽ mọc trở lại sau khi chữa trị, tóc mới có thể khác màu hoặc thay đổi thể dạng.
– Tế bào lót các bộ phận tiêu hóa: Hoá chất c&oa
cute; thể gây kém ăn, buồn nôn và ói mửa, tiêu chảy, lở miệng.

Những phản ứng phụ khác có thể là ngộp thở và giữ nước khiến cơ thể sưng trướng., bác sĩ có thể dùng dược phẩm để giúp cơ thể thải bớt nước. Hóa chất cũng có thể gay phong ngứa, mề đay ngoài da hoặc gây cảm giác kim chích tại đầu ngón tay, chân. Hầu hết các phản ứng phụ này sẽ tiết giảm khi cuộc trị liệu hoàn tất.

Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị hóa chất:

-Tôi sẽ được chữa trị bằng loại thuốc nào? khi nào thì bắt đầu? Khi nào thì xong?
-Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi chữa trị?
-Mục đích của việc chữa trị là gì? Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả?
-Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào? Có cách nào phòng ngừa không?
-Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không? Việc chữa trị ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày ra sao?

Ý kiến thứ nhì

Trước khi bắt đầu việc chữa trị, quý vị có thể tham khảo một bác sĩ khác để lấy ý kiến về chẩn đoán và chữa trị. Nhiều hãng bảo hiểm sẽ trả chi phí này nếu quý vị hoặc bác sĩ yêu cầu.

Quý vị cần một thời gian để thu góp tài liệu, y sử, các kết quả thử nghiệm và sắp xếp buổi tham khảo với một bác sĩ khác. Việc chờ đợi thường không ảnh hưởng đến kết quả của việc chữa trị. Để an tâm hơn, quý vị có thể thảo luận về việc chờ đợi này với bác sĩ của mình.

Nhiều cách để tìm một bác sĩ cho ý kiến thứ nhì: Hỏi bác sĩ của mình, hỏi chi tiết tại bệnh viện, những tổ chức y tế địa phương, trường Y khoa… để lấy tên một vị bác sĩ chuyên khoa.

Dinh dưỡng

Dinh dưỡng rất quan trọng trong mọi giai đoạn, trước khi, trong khi và sau khi chữa trị ung thư. Bệnh nhân cần một lượng đầy đủ calorie, protein, sinh tố, và khoáng chất. Khi cơ thể được bồi bổ đúng mức, bệnh nhân thường cảm thấy dễ chịu hơn.

Tuy nhiên, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc ăn uống vì nhiều nguyên nhân, mệt mỏi, biếng ăn hoặc khó nuốt thức ăn. Khi dùng hóa chất trị liệu, bệnh nhân có thể không còn nếm được thức ăn, hoặc cho rằng thức ăn không còn hương vị, thơm ngon như trước. Bệnh nhân cũng có thể chịu các phản ứng phụ như biếng ăn, buồn nôn, ói mửa, hoặc tiêu chảy.

Có nhiều cách để bồi bổ cơ thể khi không thể ăn uống đầy đủ. Hãy thảo luận với chuyên viên về dinh dưỡng (registered dietitian) để chọn cách dinh dưỡng thích hợp với đầy đủ calorie, protein, sinh tố (vitamins), và khoáng chất (minerals).
Khi có thể, nên duy trì sự hoạt động, đi bộ, yoga, bơi lội hoặc những hoạt động khác có thể gia tăng năng lực. Nên thảo luận với bác sĩ về việc vận động cơ thể và báo cho bác sĩ biết khi việc vận động gây đau đớn.

Thăm bệnh định kỳ

Sau khi chữa trị, bệnh nhân sẽ cần được khám bệnh định kỳ. Ngay cả khi không có dấu hiệu nào về ung thư tái phát, vẫn cần thăm bệnh vì mầm ung thư có thể còn sót lại trong cơ thể.

Khám bệnh định kỳ giúp bác sĩ kiểm soát theo dõi diễn tiến của bệnh trạng, các loại thử nghiệm như thử máu, chụp hình phổi, CT scan, nội soi hoặc những loại thử nghiệm khác.
Báo cho bác sĩ biết nếu bị bệnh giữa những buổi khám bệnh định kỳ.
Khi tái khám, bác sĩ thường khám hậu môn và đo lượng PSA. Khi lượng PSA gia tăng có nghĩa là ung thư tái phát. Bác sĩ có thể làm sinh thiết, thử bone scan, CT scan, MRI hoặc các loại thử nghiệm khác.

Những nguồn hỗ trợ

Chứng bệnh nan y như ung thư có thể thay đổi cuộc sống của người bệnh và cả thân nhân. Những thay đổi này khó thích nghi và chấp nhận, nên điều dễ hiểu là bệnh nhân cũng như những người thân yêu thường trải qua những giai đoạn khó khăn, phân vân, bất an, buồn rầu.

Người bệnh có thể lo âu về gia đình, công việc làm, hoặc sinh hoạt hàng ngày kể cả việc chịu đựng và thích nghi với việc trị bệnh, những chuyến ra vào bệnh viện, phản ứng phụ và những phí tổn trị liệu.

Sống với căn bệnh nan y, người bệnh thường sợ hãi, tự trách, giận dữ hoặc buồn rầu. Những cảm tính này sẽ khiến đời sống nặng nề buồn thảm hơn. Bệnh nhân có thể tìm những nguồn hỗ trợ chia sẻ qua quý vị hữu, thân nhân, chuyên viên tâm lý hoặc cả những bệnh nhân khác.

Nguồn hỗ trợ có thể bao gồm:

Bác sĩ, y tá, những chuyên viên trong nhóm trị liệu có thể trả lời hầu hết những câu hỏi liên quan đến bệnh trạng.
Chuyên viên xã hội, chuyên viên tâm lý hoặc những vị lãnh đạo tôn giáo có thể giúp đỡ phần tinh thần. Chuyên viên xã hội có thể giới thiệu hoặc chỉ dẫn những nguồn tài trợ, việc chuyên chở, trị liệu tại nhà…

Những nhóm hỗ trợ: bệnh nhân và người thân gặp gỡ các bệnh nhân khác và thân quyến họ để chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm về căn bệnh và việc chữa trị. Những nhóm hỗ trợ này có thể gặp gỡ qua sự họp mặt, điện thoại, hoặc qua internet.

Các chuy
ên viên tại 1-8-4-CANCER (điện thoại miễn phí trên lãnh thổ Hoa Kỳ) có thể giúp bệnh nhân tìm những chương trình hỗ trợ, dịch vụ và các tin tức, tài liệu liên quan đến ung thư.

Sự hứa hẹn của ngành khảo cứu ung thư

Bác sĩ tại Hoa Kỳ đang thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm lâm sàng. Thử nghiệm lâm sàng được hoạch định với mục đích trả lời các câu hỏi quan trọng về cách trị liệu hữu hiệu nhất.

Những tìm hiểu khoa học đã tạo được nhiều lợi ích, giúp con người sống lâu hơn, và khoa học tiếp tục tìm kiếm. Các chuyên gia đang tìm kiếm phương pháp ngăn ngừa ung thư, cách tìm ra bệnh sớm hơn, cũng như cách trị liệu hiệu quả hơn.
Các chuyên gia đang thử nghiệm nhiều phương cách trị liệu dùng riêng rẽ hoặc dùng chung với nhau:

– "Chờ xem": Bác sĩ đang so sánh cách chữa trị bằng giải phẫu và xạ trị với việc "chờ xem". Kết của của cuộc khảo nghiệm này sẽ giúp bác sĩ và bệnh nhân chọn lựa cách chữa trị tốt nhất cho ung thư tuyến nhiếp hộ trong thời kỳ đầu.

– Cryosurgery: cách chữa trị này cũng đang được thử nghiệm xem hiệu quả lâu dài đến đâu khi dùng để chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ vào thời kỳ đầu.

– High intensified focused ultrasound (HIFU): Bác sĩ đang thử nghiệm cách trị liệu này trong bệnh nhân bị ung thư thời kỳ đầu. Bác sĩ đặt que thăm (probe) tại trực tràng và chuyển sóng siêu âm đến khôi u, nhiệt độ tiêu diệt tế bào ung thư.

– Xạ trị: Lượng và thời gian chữa trị đang được khảo sát xem bao nhiêu chất phóng xạ và thường xuyên đến đâu thì hiệu quả cao nhất. Xạ trị dùng chung với nội tiết tố có gia tăng hiệu quả hay không.

Nội tiết tố trị liệu: Bác sĩ đang tìm hiểu cách dùng nội tiết tố trị liệu, theo thời khó biểu nào thì hiệu quả cao nhất và dùng chung với các loại trị liệu khác có gia tăng hiệu quả hay không.

– Hóa chất trị liệu: Bác sĩ tìm hiểu kiếm các loại thuốc mới, các cách dùng chung nhiều loại thuốc, và lượng thuốc mới.

– Sinh hóa tố trị liệu: Bác sĩ đang thử nghiệm cách dùng sinh hoá tố như "vaccine" để chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ.

Ngoài ra các chuyên gia cũng tìm cách tiết giảm phản ứng phụ của việc trị liệu như loãng xương, bốc hỏa và liệt dương.

Trang nhà của viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ có phần tin tức về thử nghiệm lâm sàng: h*tp://www.cancer. gov/clinicaltria ls. Tại đây ngoài các tin tức về thử nghiệm còn có những chi tiết về các cuộc thử nghiệm lâm sàng về ung thư.
Nguồn tài liệu, tin tức từ viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ. Quý vị có thể lấy tin tức cho chính mình, thân nhân hoặc bác sĩ của mình.

Điện thoại (miễn phí trên lãnh thổ Hoa Kỳ): 1-800-4-CANCER (1-800-422-6237) .
Điện thoại dành cho những người lãng tai: 1-800-332-8615

Trang nhà của viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ cung cấp tin tức về cách ngăn ngừa ung thư, truy tìm, chẩn đoán, chữa trị, di tính học, thử nghiệm lâm sàng. Ngoài ra còn có những dữ kiện về các chương trình khảo cứu, chương trình tài trợ và cả thống kê về ung thư.

Trang nhà: h*tp://cancer. gov
Nếu quý vị cần thêm chi tiết hoặc các dữ kiện khác, hãy dùng “online contact form” tại: h*tp://www.cancer. gov/contact hoặc gửi điện thư về:

cancergovstaff@ mail.nih.*** (thay thế *** bằng “gov”)

Tài liệu

Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ cung cấp những tài liệu (ấn bản, tạp chí) về ung thư, những tài liệu này bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha.

Quý vị có thể đặt mua (ấn phí tối thiểu) qua điện thoại, trên trang mạng hoặc bằng thư từ, hoặc vào trang nhà kể trên, và tự in phụ bản cho mình.

Thư từ gửi về:

Publications Ordering Service
National Cancer Institung thưe
Suite 3035A
6116 Executive Boulevard, MSC 8322
Bethesda, MD 20892-8322

Chữa trị ung thư (Cancer Treatment)

– Hóa chất trị liệu và quý vị (Chemotherapy and You)
– Xạ trị và quý vị (Radiation Therapy and You)
– Làm thế nào để tìm một bác sĩ hoặc nơi trị liệu nếu quý vị bị ung thư (How To Find a Doctor or Treatment Facility If You Have Cancer)
– Câu hỏi và câu trả lời về targeted therapy (Targeted Cancer Therapies: Questions and Answers)
– Câu hỏi và câu trả lời về cách trị liệu ung thư bằng ánh sáng (Photodynamic Therapy for Cancer: Questions and Answers)

Sống với ung thư (Living With Cancer)
– Cách ăn uống dành cho người bị ung thư (Eating Hints for Cancer Patients)
– Giảm đau đớn (Pain Control)
– Thích ứng với ung thư thời kỳ sau cùng (Coping With Advanced Cancer)
– Những ngày sắp tới: Đời sống sau khi chữa trị ung thư (Facing Forward Series: Life After Cancer Treatment)
– Những ngày sắp tới: Những cách tạo sự thay đổi cho ung thư (Facing Forward Series: Ways You Can Make a Difference in Cancer)
– Dành thời giờ: Hỗ trợ những người bị ung thư (Taking Time: Support for People with Cancer)

Khi ung thư tái phát (When Cancer Returns)
– Những tổ chức cung cấp dịch vụ giúp những người bị ung thư và thân nhân họ (National Organizations That Offer Services to People With Cancer and Their Families)

Thử nghiệm lâm sàng (Clinical Trials)
– Tham dự thử nghiệm lâm sàng (Taking Part in Cancer Treatment Research Studies)

– Những yếu tố nguy hại (Risk Factors)

Người chăm sóc bệnh nhân (Caregivers)
– Khi người thân yêu được chữa trị bệnh ung thư: hỗ trợ người chăm sóc (When Someone You Love Is Being Treated for Cancer: Support for Caregivers)
– Khi người thân yêu bị ung thư ở giai đoạn cuối: Hỗ trợ người chăm sóc (When Someone You Love Has Advanced Cancer: Support for Caregivers)
– Những ngày sắp tới: Khi cuộc chữa trị ung thư của người thân chấm dứt (Facing Forward: When Someone You Love Has Completed Cancer Treatment)

* Tài liệu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ No. 08-1576, tháng Mười Một 2008